Hồi ký Ba Đình
Mật cứ Đá Chông, nơi có những nhũ đá nhô lên nhọn tựa mũi chông. Hồi những
năm 1977 - 1978 Ba Đình thường hay qua đây mỗi khi chạy ra sông Đà chơi
Nước láng giềng Trung Quốc cắt viện trợ, rút hết chuyên gia về nước khiến cho kinh tế Việt Nam lúc ấy đứng bên bờ vực thẳm của nạn đói khủng khiếp rất có thể xảy ra. Song nhờ những nước anh em Đông Âu hết lòng giúp đỡ cộng vơí sự nỗ lực cố gắng và bản lĩnh cao cường nên nhân dân Việt Nam đã vượt qua tất cả. Toàn cảnh xã hội ngày ấy chỉ xoay quanh vấn đề lương thực, thực phẩm. Những cán bộ nhà nước ăn mặc tuềnh toàng, sau xe đạp thể nào cũng có mớ rau muống, hay sang lắm là vài ba lạng thịt lợn sỏ dây lạt tre treo tòn ten trước ghi đông xe đạp. Hồi ấy các ngành khác không được chú trọng lắm trong đó có ngành khảo cổ. Và cũng chính ngành khảo cổ không được chú trọng nên sự kiện đào bới trên bị lãng quên. Câu chuyện đào bới không được trên quan tâm xem xét mà chỉ làm đề tài cho những bác nông dân có chút kinh nghiệm cuộc sống đàm đạo bên bàn trà nước, thuốc lào để rồi sau đó đi vào dĩ vãng. Tôi thì đánh giá sự kiện này theo một vài nhận định chủ quan như sau:
- Vào những năm thuộc Minh, những người Hoa sống quanh nơi đây, hoặc không xa nơi đây dựa vào sự bảo hộ của quân đội đại lục đã vơ vét được ít nhiều của cải để làm giàu cho mình. Rồi sau đó trước sự thất bại không thể cứu vãn nổi của quân Minh nên họ đã tìm địa điểm trôn giấu của cải, họ giả cách lập miếu thờ, trồng cây lên để đánh dấu, vẽ lại bản đồ trong gia phả chờ cơ hội thuận lợi thì bí mật đào lên đem về. Cũng không loại trừ đây là kho báu vật của quan tướng nhà Minh trong lúc bị nghĩa quân Lam Sơn vây khốn không sao tẩu tán được nên mới phải đào hố chôn dấu, có thể còn có sự giết người để bịt đầu mối. Lịch sử Việt Nam từng ghi nhận không ít trường hợp những người Hán giấu của như vậy. Gần đây báo chí còn đăng tin nhiều địa kiểm giấu của cải ở những hang núi thuộc tỉnh Hòa Bình của quân Cờ Vàng có xuất sứ từ Trung Quốc.
Nhưng vì sao tôi lại tập trung sự suy đoán vào quân Minh? Tôi đã cố gắng làm sao cho thật khách quan, thật công bằng trong sự suy đoán này và cũng cố xua đuổi nó đi song vô ích. Những ý nghĩ này vẫn bám trong đầu tôi như rêu, làm tôi nghi nghi hoặc hoặc, tôi nghĩ:
Thứ nhất là lịch sử Việt Nam ghi nhận rằng chỉ có người Hán mới hay chôn giấu của cải kiểu này.
Thứ hai là không thể là quân Nguyên, bởi vì niên đại của ngôi miếu và cây đa không cổ đến thế. Mặt khác quân Nguyên chỉ tiến hành những cuộc hành binh đánh nhanh, thắng nhanh ồ ạt chứ chưa ăn sâu bén rễ, chưa kịp đặt chế độ đô hộ để mà nô dịch, mà vơ vét của cải. Hơn nữa, mấy cuộc chiến tranh do Hưng Đạo Vương lãnh đạo đã cùng toàn dân Việt Nam thực hiện triệt để kế hoạch vườn không nhà trống, đến con gà con lợn, lạng thóc, cân ngô cũng khó lòng kiếm được chứ nói gì tới vàng bạc châu báu với số lượng lớn.
Thứ ba là lịch sử cận đại cũng ghi nhận hai cuộc chiến tranh trên quy mô lớn của nhân dân Việt Nam chống lại quân Minh ( 1418 - 1427) và quân Thanh (1788 - 1789). Ở đây tôi loại bỏ yếu tố về sự có mặt của quân Thanh trong chuyện này, bởi vì với một năm quân Thanh vừa mới chân ướt, chân ráo đến Việt Nam chưa thể lập được chế độ cai trị để có đủ thời gian mà vơ vét. Mặt khác sử sách cũng không ghi chép gì về sự có mặt của quân Thanh ở vùng Nam Định. Do vậy tôi loại trừ ảnh hưởng của quân Thanh ra khỏi câu chuyện này. Tôi đặc biệt chú ý tới quân Minh bởi vì sử sách ghi chép rất tỉ mỉ về sự cai trị hà khắc, tham lam của quân Minh gần mười năm trời ở Việt Nam. Nhóm Ngô Gia Văn Phái cũng nhắc nhiều tới sự nhũng nhiễu của những bộ phận người Hoa ở trấn Sơn Nam lúc bấy giờ. Những bộ phận người này suốt mười năm trời làm ăn buôn bán dưới sự bảo hộ của quân Minh chắc chắn họ sẽ để được những gia tài khổng lồ. Ngoài ra niên đại của ngôi miếu và cây đa cũng phù hợp với thời gian trong sự có mặt của quân Minh tại Việt Nam.
Lại nói về xóm Bơ và Trại Cầu ngày ấy nổi tiếng là nhiều rắn độc. Hồi ấy có không ít người dân bị rắn cắn chết, hay bị tàn phế suốt đời. Những giống rắn độc thường là cạp nong (khá lớn khoanh vàng, khoanh đen khá độc), cạp nia (rất nhỏ, với khoanh đen, khoanh trắng, kịch độc) hay là hổ mang bành cũng rất độc, không kể nhiều giống khác nữa. Thường ngày, thỉnh toảng lại xuất hiện một vài tay thợ bắt rắn với những chiếc thuổng trên vai và chiếc bao tải để đựng rắn. Họ từ đâu tới không ai biết, chỉ biết họ hay lang thang ra những bờ sông, những gò đống mà ngó nghiêng, mà xem xét rồi đào đào, bới bới. Rất có thể trong số những tay thợ này là con cháu của chủ nhân kho báu giả làm người bắt rắn đi lang thang qua những xóm thôn để xác định chính xác địa điểm và khi đã xác định chính xác rồi, vào một đêm không trăng sao họ đã bí mật tới đây đào bới mang đi.
Nói về chuyện rắn ở vùng Nam Định hồi những năm 70 - 80 vẫn còn nhiều lắm. Trên cây thì có giống rắn ráo tinh nhanh, thân màu xanh vô hại và không độc. Các tay thợ bắt rắn thường hay trèo lên cây (vì rắn ráo hay sống trên cây) mà rung, dọa cho rắn ráo bổ xuống đất rồi lao vào mà vồ bằng tay không. Nguyên cái giống rắn ráo ở trên cây thì tinh ranh như quỷ, nhưng khi xuống đất thì anh chàng trở nên vụng về vì không quen địa hình. Chính dựa vào điểm yếu này mà các tay thợ bắt rắt ranh ma đã ra sức lùa anh rắn ráo xuống đất mà bắt dễ như trở bàn tay vậy.
Trong những bờ sông, bờ mương thì hay có rắn cạp nong, hay còn gọi là mai gầm. Cạp nong là giống rắn tương đối độc, tuy không nguy hiểm chết người song những ai từng bị anh này bợp cũng phải ốm đau khốn đốn. Anh cạp nong có bộ mã ngoài rất đỏm. Mình anh khá dài, cỡ mét rưỡi tây, được trang điểm bằng những khoanh vàng xen lẫn khoang đen trông khá ngộ nghĩnh. Anh cạp nong không bao giờ rời khỏi ổ vào ban ngày, vì mắt anh kém không chịu được ánh nắng nên anh ta nằm lì trong hang, tối khuya mới bò khỏi hang để kiếm mồi. Các tay thợ bắt rắn thường tìm hang cạp nia ở các bờ sông, gò đống. Họ chỉ cần nhìn nền hang nhẵn thín thì biết ngay là hang rắn, bởi rắn bò bằng bụng nên làm cho nền hang rất nhẵn. Thợ chỉ cần dùng thuổng đào ít phút là bắt được rắn. Khi anh cạp nia bị lôi khỏi tổ thì trở nên lù đù, hiền lành rất thích mắt.
Ở ngoài bờ đê sông Đào, dưới những lũy tre xanh tươi là nơi trú ngụ của giống rắn hổ trâu. Hổ trâu là giống rắn không độc tuy anh ta có cái tên khá là dữ dằn. Toàn thân anh mầu xám, dài cỡ 2 mét, rất hiền và giỏi bơi lội. Đặc biệt thịt anh này ngon nhất trong họ hàng nhà rắn nên là đối tượng săn bắt đặc biệt của những bợm nhậu. Người dân ngoài đê sông Đào kể rằng thỉnh thoảng nhìn thấy cặp rắn hổ trâu dài tới vài ba mét, đang đêm bơi lội lập lờ dưới làn nước sông để kiếm ăn.
Nam Định còn là quê hương của giống hổ mang bành danh tiếng thiên hạ. Riêng anh mang bành nổi tiếng dữ dội và nọc rất độc. Ai bị anh này mổ cho một phát thì nếu không mất mạng cũng ốm đau vật vã hàng tháng báo cháo. Riêng anh mang bành có đặc tính lạ là thích xơi thịt đồng loại. Nếu vô tình bắt gặp đồng loại trên đường kiếm ăn, thay vì có những động tác va chạm bày tỏ sự vui mừng thì anh ta phùng mang trợn mắt nuốt luôn đồng loại. Mà có điều lạ là anh ta có thể nuốt được những cá thể to như bản thân anh ta vậy mà không chết vì ngẹn thở kể cũng lạ.
Ở những làng thôn Nam Định còn nhiều loài rắn nước có bộ mã khá đẹp và không độc. Những giống rắn nước thường chọn nơi bờ sông, bờ ao làm nơi trú ngụ. Thức ăn chủ yếu của chúng là cá nhỏ, ếch nhái và chuột đồng. Song có một loại rắn đặc biệt hi hữu là giống hổ mang thiếc. Tôi đã từng chứng kiến đám trẻ con khi lật một tảng bê tông cũ ở ngoài vườn đã phát hiện được một con rắn như vậy. Rắn này trông rất đẹp, dài chỉ khoảng 40 phân, béo tròn mũm mĩm đẹp tuyệt, đuôi rắn rất ngắn và tù. Anh rắn này có cặp mắt tròn trong veo hiền lành, anh ta cử động chậm dãi dễ thương dưới ánh mặt trời. Anh ta hiền lành tới mức ngay cả cất cổ, trợn mắt, lè lưỡi đe dọa chúng tôi anh ta cũng không biết. Riêng mầu sắc anh ta thì đẹp không thể tả. Toàn thân anh phủ một lớp vẩy nhỏ, mịn và bóng nhẫy, nhiều mầu sắc phản quang lấp lánh xanh biếc như mầu bọ cánh cam dưới ánh mặt trời. Có điều lạ là không hiểu bằng cách nào anh ta lại nằm dưới tấm bê tông được. Rõ ràng chúng tôi xem xét kĩ lưỡng thì thấy tấm bê tông ấy nằm lún xuống đất, mọc đầy cỏ rác và từ lâu không có người hay vật đụng chạm tới. Một điều lạ nữa là quanh tấm bê tông ấy không hề có lỗ ra vào của rắn. Điều đó chứng tỏ rắn này nằm đây đã từ lâu lắm không hề chui ra chui vào. Có người cho rằng có ai đó vô tình để tấm bê tông lên chốc trứng rắn, hoặc rắn con mới nở, sau đó rắn nở ra và bị cầm tù luôn dưới tấm bê tông đã nhiều năm tháng cho tới khi bị đám trẻ con phát hiện. Luận cứ này có vẻ có lí, song một câu hỏi được đặt ra là vậy thì rắn ăn gì trong bằng ấy năm tháng để béo đẹp mũm mĩm dễ thương đến vậy? Chúng tôi không tìm ra câu trả lời. Một vài người lớn có kinh nghiệm đe rằng rắn này kịch độc, chỉ cần ăn thịt chúng đã đủ tiêu vong chứ chưa cần chờ chúng mổ. Nghe vậy lũ trẻ lấy que đánh chết rắn rồi đem vứt ra ao cho cá rỉa. Tôi không đánh rắn mà lấy làm tiếc, giá chi mình có điều kiện nuôi dưỡng rồi đem tặng cho vườn bách thú Hà Nội để mọi người chiêm ngưỡng thì hay biết mấy. Sau này tôi đem chuyện rắn hổ mang thiếc để đi hỏi khắp thiên hạ, đặc biệt là những bợm nhậu xem họ đã từng mục kính rắn ấy bao giờ chưa nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu.
Hồi còn học ở trường Trung cấp Mật mã của Bộ Tổng Tham mưu tôi đã có lần chính mắt phát hiện ra rắn. Số là thế này
Hồi ấy tôi cùng toàn thể anh em Đại đội 8 đi gánh gạch vừa nung xong từ lò gạch ngoài bờ sông Đáy để cất vào kho. Gánh xong gạch chúng tôi chạy ùa ra chỗ bến tắm, nơi có những bậc tam cấp dẫn xuống sông để rửa mặt mũi chân tay. Hồi ấy đang độ cuối thu, nắng hanh dìu dịu chiếu sáng lấp lánh những rặng cây bên kia bờ sông, làm cho cả một rặng cây ánh lên như dát bằng bạc. Nước sông mùa thu hiền hòa trong vắt và tương đối nông vì thượng nguồn từ lâu không mưa. Bên bờ sông có những hàm ếch do nước lũ mùa hạ qua bao nhiêu trận xói mòn tạo thành. Cỏ cây và day leo chằng chịt xà xuống phủ kín hàm ếch, làm cho hàm ếch trở nên nhập nhoạng tranh tối tranh sáng, khiến người ta không thể nhìn rõ những gì bên trong. Tôi tò mò thầm nghĩ "ta thử khảo sát hàm ếch xem sao, biết đâu có thú vật sinh sống hay dị vật cổ do sóng nước tấp vào". Nói là làm, song vẫn sợ nên tôi bèn vớ lấy cái que bằng cành xoan khô, từ phía ngoài nâng đám cỏ rắc dây leo rồi ngó xuống xem....Còn tiếp
Quay trở về thời điểm lịch sử những năm 1950 trở ra, những lớn mạnh không ngừng của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn tổng tiến công. Nhưng một yêu cầu cấp bách, bức thiết của Quân đội là ở chỗ cần phải đào tạo gấp rút một số cán bộ có trình độ quân sự cao, có trình độ tổ chức, tác chiến hiện đại để đáp ứng nhu cầu trên khắp các chiến trường. Một khó khăn lớn là Việt Nam hiện chưa có nhiều nhà trường để có thể đào tạo cán bộ trên quy mô lớn, mặt khác sự thiếu cán bộ giảng viên trình độ cao cũng là một trở ngại không dễ gì khắc phục. Trước tình hình đó Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã có những sự thương lượng với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, họ sốt sắng nhận giúp Quân đội Nhân dân Việt Nam đào tạo gấp một số cán bộ. Ông Đinh Viết Phụng là một trong những cán bộ được cử đi học Trường lục quân Pháo binh tại Trung Quốc. Lớp học này gồm toàn những chiến sĩ trẻ và có chút ít học vấn, được tuyển chọn khá kỹ lưỡng. Điều này cũng không lạ vì Quân đội Nhân dân Việt Nam hồi ấy chủ yếu là do tầng lớp nông dân tổ thành, họ hầu hết là mù chữ và ra đi kháng chiến từ những làng quê nghèo nàn và lạc hậu. Những lực lượng quân đội này không thể tham gia những lớp học mà họ được tổ chức thành các đơn vị thường trực chiến đấu, rồi tự học hay là tham gia vào các lớp bình dân học vụ để nhằm xóa nạn mù chữ.
Lớp học được tổ chức thành đoàn, vừa đi vừa tham gia chiến đấu, có không ít người hoặc hi sinh, hoặc thương vong bệnh tật phải nằm lại trên đất Việt Nam. Khi sang tới đất Trung Quốc, đoàn đã khẩn trương bắt tay ngay vào công tác học tập. Họ học hành hăng say, với phương châm "lấy cần cù bù khả năng", ban ngày họ lăn lộn trên thao trường hay miệt mài trong lớp học lí thuyết, buổi tối họ truy bài, ôn bài thảo luận sôi nổi cho đến lúc có lệnh đi ngủ mới dừng tay. Ông Phụng kể rằng ông không bao giờ quên được tình cảm nồng nàn nhân hậu của nhân dân Trung Quốc dành cho bộ đội Việt Nam hồi bấy giờ. Nhà bếp cho anh em bộ đội Việt Nam ăn những món ngon mà ở Việt Nam họ chưa một lần được nghe chứ đừng nói nếm qua. Thỉnh thoảng các bà, các mẹ lại tự làm đồ ăn, họ mang những giỏ đầy lê, táo là những hoa quả sang trọng hồi bấy giờ để tặng anh em Việt Nam. Rồi các bà các mẹ lại trổ tài khâu những đôi giày vải thêu thùa tinh xảo cho anh em đi. Thỉnh thoảng bộ đội Bát lộ quân Trung Quốc tổ chức những buổi giao lưu, những đêm trình diễn văn nghệ hoặc chiếu phim phục vụ bộ đội Việt Nam khiến cho không khí luôn tưng bừng, náo nức và đầy sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau. Nhân dân và quân đội Trung Quốc rất thấu hiểu tình cảnh của Nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ là khao khát một nền hòa bình, một nền độc lập tự chủ để những người lính được trở về với quê hương, với gia đình mình mà tiếp tục công việc đồng áng. Họ cũng ghi nhận những hy sinh, những lỗ lực phi thường của bộ đội Việt Nam trong chiến dịch "Thập vạn đại sơn" năm 1949 giúp cách mạng Trung Quốc quyét sạch tàn dư Quốc dân Đảng, thiết lập chính quyền trên một vùng rộng lớn ở biên giới Đông Nam nước này. Đồng thời họ hiểu hành động giúp đỡ Việt Nam của phía Trung Quốc cũng là để bảo vệ chính mình. Sự lớn mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam sẽ là một lực lượng quân sự quét sạch tàn quân Quốc dân đảng Trung Quốc âm mưu lấy vùng đất ở ngã ba biên giới phía Tây Bắc Việt Nam làm nơi ẩn náu. Rồi từ đó lực lượng này sẽ tìm cách móc nối, thông đồng với các thế lực nước ngoài để xin viện trợ, tổ chức lực lượng chờ dịp phản công.
Sau thời gian ba năm hăng say miệt mài học tập, rèn luyện những học viên Việt Nam đã trở thành những sĩ quan chỉ huy pháo binh trẻ, khoẻ, có trình độ cao. Đầu năm 1953 họ chuẩn bị lên đường về lại Tổ quốc để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Quân đội nước CHND Trung Hoa trao tặng bộ đội Việt Nam một Trung đoàn pháo 105 ly. Số pháo này một phần do Liên Xô viện trợ cho Trung Quốc, một phần do quân đội Trung Quốc thu được của Tưởng giới Thạch, đa phần còn rất tốt với khoảng hơn ba nghìn viên đạn. Đầu năm 1953 đoàn Việt Nam hành quân qua Vân Nam, lên đường về nước tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Hồi ấy các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc tiếp giáp với Vân Nam còn nằm trong tình trạng lạc hậu nguyên thủy. Đại đa số là rừng rậm ngút ngàn, có những khu rừng hàng trăm năm không có dấu chân người, đường xá toàn là những lối mòn, đôi khi phải lên thác xuống ghềnh vô cùng khó khăn gian khổ. Có nhiều lúc đoàn phải làm bè bằng nứa, tháo tung từng bộ phận của những khẩu trọng pháo nặng hàng vài tấn ra để chuyên chở bằng đường sông suối về nơi tập kết tại Tuyên Quang, Việt Bắc. Lối hành quân độc đáo này vừa giải quyết được khó khăn khi vận chuyển bằng đường rừng, lại vừa bảo đảm bí mật tránh đươc sự nhòm ngó, oanh kích của máy bay Pháp. Đêm ngày 22 - 12 - 1953 Đại đoàn Công pháo Quân đội Nhân dân Việt Nam nhận được lệnh kéo pháo sang Tây Bắc tham gia đánh trận Điện Biên Phủ. Khi đến vùng Tây Bắc, bộ đội đối mặt ngay với cảnh sinh hoạt thiếu thốn, tạm bợ trong chiến tranh. Khẩu phần ăn giảm hẳn, thức ăn chủ yếu là mắm kem, thỉnh thoảng lắm mới có miếng thịt. Ông Phụng nói đã có lần ông được ăn thịt voi, ông bảo thịt voi ăn nhạt, duy chỉ có cái vòi đem ninh kỹ ăn rất ngon. Đặc biệt bộ đội và dân công thiếu rau xanh trầm trọng. Các loại rau rừng đã bị thu hoạch hết để nuôi hơn mười nghìn bộ đội chủ lực với hơn ba mươi nghìn dân công hỏa tuyến làm công tác vận tải. Trước tình hình thiếu rau xanh, bộ đội đã khắc phục bằng cách đi hái những trái ớt rừng mọc khá nhiều ở Tây Bắc rồi dùng những hòn sỏi to làm chày giã nát đem nấu canh. Hằng ngày bộ đội Pháo binh phải ra sức kéo những khẩu pháo nặng hàng tấn lên những con dốc quanh co trong rừng rậm, rồi lại phải lo đào công sự chiến đấu, đào hầm giấu pháo. Sự lao động nặng nhọc cộng với chế độ ăn uống kham khổ đã để lại hậu quả là rất nhiều bộ đội sau này bị bệnh dạ dày. Ông Phụng bị loét dạ dầy nặng và đã phải mổ đi mổ lại tới 3 lần, hai lần tạm khâu chỗ bị thủng, lần thứ ba cắt bỏ tới 2 phần 3. Khi biết Pháo binh Việt Nam đã chiếm lĩnh song trận địa, viên Trung tá chỉ huy Pháo binh Pháp Pi Rốt đã huênh hoang tuyên bố rằng:
- Sẽ cho Pháo binh Việt Nam câm họng trong ít phút!
Ông ta là một sĩ quan tài năng của quân đội Pháp, rất được cấp trên sủng ái nên đã mờ mắt mà không thấy được những cách bố trí trận địa pháo vừa an toàn, vừa độc đáo của Pháo binh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bộ đội Việt Nam đào rất nhiều hầm khoét sâu vào vách núi để làm nơi giấu pháo khiến cho Pháo binh và Không quân Pháp không có cách gì tiêu diệt được. Duy nhất có một lần xe tăng M 24 của Pháp mò vào được gần trận địa bố trí sơn pháo 75 ly của bộ đội Việt Nam song bị bắn hỏng ngay ít phút sau đó. Lúc đó ông Phụng là Đại đội trưởng chỉ huy pháo binh. Ông có trong tay những khẩu trọng pháo 105 ly, là pháo lớn nhất, và cũng là niềm hãnh diện của Quân đội Nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Nhưng điều đó không quan trọng, cái làm nên sức mạnh là tinh thần quyết tử, nguyện đem máu xương để giành chiến thắng, để giải phóng Tổ quốc của các chiến sỹ Điện Biên lúc bấy giờ.
Đại đội pháo của ông Phụng nằm trong một căn hầm khoét sâu vào vách núi. Hầm khá rộng đủ để chứa được cỗ pháo to lớn cồng kềnh cùng đạn dược, lại vừa có đủ chỗ ăn ngủ cho ông và các pháo thủ. Hằng ngày ông nằm trong màn chờ lệnh của trên, thỉnh thoảng mới cho bắn vài quả. Ông Phụng nói ngày ấy Pháo binh Việt Nam thiếu đạn nghiêm trọng nên số lần bắn bị hạn chế, chỉ được bắn với số lượng do cấp trên quy định, không được tự ý tác xạ theo ý mình. Những ngày đầu đánh Điện Biên Phủ Pháo binh Việt Nam có lần bắn không tới mục tiêu, xém chút bắn vào bộ binh quân mình. Các chỉ huy và pháo thủ ngơ ngác không hiểu vì sao mình đã thực hiện đúng các yếu lĩnh mà nhiều đơn vị pháo phạm phải lỗi nghiêm trọng dường ấy. Sau tìm hiểu nguyên nhân thì hoá ra số đạn pháo do Trung Quốc sản xuất không đạt những tiêu chuẩn kỹ thuật. Cũng phải nói rằng hồi ấy nước bạn mới giải phóng được năm năm, Quân giới bạn chưa đạt được trình độ chế tạo vũ khí cao như bây giờ, chế tạo đạn pháo không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật nên đã gây ra một số sự cố đáng tiếc kể trên.
Sau sự cố trên pháo binh quân đội nhân dân Việt Nam đã họp bàn rút kinh nghiệm và xin cấp trên cho tác xạ hoàn toàn bằng cơ số đạn do Mỹ sản xuất. Kết quả thật mĩ mãn, bộ đội pháo binh bắn ngày càng chuẩn, trút bão lửa sấm sét xuống đội quân viễn chinh Pháp đồn trú trong các cứ điểm, làm cho quân Pháp không có cơ hội thò đầu ra khỏi chiến hào. Nhờ đó mà bộ binh quân đội Việt Minh có đủ thời gian và cơ hội xung phong nhanh chóng tiếp cận trận địa, tiêu diệt và bức hàng hết căn cứ này đến căn cứ khác, khiến cho tập đoàn cứ điểm ngày càng bị thu hẹp.
Tình hình quân Pháp những ngày cáo chung thậtt bi đát tới cùng cực. Kẻ sống ở lẫn với người chết, cùng với thương, bệnh binh chui rúc trong những đoạn hầm hào chật hẹp. Quân Pháp buộc phải đi vệ sinh tại chính nơi ăn, nơi ngủ của mình. Họ rơi vào tình trạng thiếu đói nhiều ngày vì phần lớn thực phẩm do máy bay thả dù tiếp tế rơi vào tay Việt Minh. Đám tàn quân còn lại lúc bấy giờ gầy yếu tả tơi, mặt mũi nhem nhuốc đầy mình cáu ghét, râu tóc bơ phờ trông không khác gì một đám thổ phỉ ô hợp. Thần khí hùng hổ của họ tan biến đâu mất, đó đây vang lên tiếng kêu la oán thán vì đói khát, tuyệt vọng. Mùi hôi hám bốc lên từ đám thương binh thiếu thuốc, những tiếng rú của những tên lính bị thương làm cho trại quân không khác gì địa ngục.
Đại tá Đờ Cátxtơri được lính thông tin quân Pháp nối mạch nói chuyện với vợ ở Hà Nội, ông ta khẳng định quyết tử chứ nhất định không chịu đầu hàng vì vinh dự nước Pháp. Cũng nhờ sự lên gân lần cuối này mà ông ta được phong Thiếu tướng.
Nhưng sự lên gân của Tướng Đờ Cát chẳng léo dài được bao lâu. Chiều nhày mồng 7 tháng 5 năm 1954, trước sức tấn công mãnh liệt của Quân đội nhân dân Việt Nam ông ta buộc phải kéo cờ trắng ra hàng vô điều kiện.
Sự đầu hàng của quân đội viễn chinh Pháp đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ hà khắc của người Pháp tại Việt Nam nói riêng và toàn cõi Đông Dương nói chung.
Chiến thắng này là do sự lãnh đạo tài ba của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Trường Chinh, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng toàn quân và dân Việt Nam. Điều đặc biệt dẫn tới chiến thắng này là sự quyết tâm cao của của những Đại đoàn trực tiếp tham chiến, trong đó có công sức rất lớn có tính quyết định của Đại đoàn công pháo - tiền thân của Binh chủng Pháo binh quân đội nhân dân Việt Nam Sau này.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, các đơn vị quân đội được lệnh sau ít ngày nghỉ ngơi tiến về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Nhạc sĩ Văn Cao đã viết một tác phẩm hào hùng nhằm ghi lại không khí náo nức ngày đó:
"...năm cửa ô đón mừng, đoàn quân tiến về
như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào, trải rộng sương sớm long lanh...
...chúng ta ươm lại hoa, sắc hương say ngày xa ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu. Những bông hoa ngày mai đón tương lai vào tay ..."
Sau ngày tiếp quản Thủ đô, ông Phụng còn công tác ở Binh chủng Pháo binh một thời gian, rồi chuyển sang làm việc ở Bộ tư lệnh Công binh, góp phần tham gia xây dựng căn cứ Đá Chông như đã nói trên.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần, thi hài được gìn giữ nơi đây. Ông Phụng đã cùng Thiếu tướng Trần Kinh Chi - Cục trưởng An ninh quân đội - trực tiếp mở cuộc hành quân bí mật trong đêm chở thi hài Hồ Chủ tịch lên giấu trong căn cứ.
Từ nay trở đi, ngoài việc bảo vệ tuyệt đối an toàn cho các Uỷ viên Bộ chính trị lên làm việc, ông Phụng còn vừa phải cùng các chuyên gia Liên Xô lo giữ gìn, bảo quản thi hài của Hồ chủ tịch luôn ở trong trạng thái tốt nhất.
Ông Phụng kể đã từng đón các Tướng lĩnh Trung ương Cục miền Nam ra báo cáo tình hình như ông Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam), Trung tướng Trần Độ (sau là Trưởng ban Văn nghệ Trung ương), ông Phạm Hùng (sau là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng)...
Thường thường ngoài giờ làm việc ông Phung hay chơi bài tổ tôm với cán bộ, sĩ quan cấp dưới, nhiều khi ông đi câu ở những đầm nước xung quang căn cứ. Thỉnh thoảng ông lại cùng những sĩ quan trẻ người dân tộc Tày đi thăm bẫy thú, thi thoảng vớ được hươu còn phần nhiều là những giống thú nhỏ như chồn cáo, cày hương ...
Năm 1975 trong một lần ông Phụng về thăm quê Nam Định có mang theo một cái chổi làm bằng đuôi cầy hương rất đẹp. Lai lịch của cái đuôi con cầy là do một lần ra thăm bẫy treo, ông phát hiện một vùng cây cỏ bị phá nát, hoá ra một con cầy hương rất lớn bị dính bẫy, một chân bị treo lên cao nên cầy hương ta vùng vẫy cắn nát một vùng cây cỏ bằng cái nong vậy. Riêng cái anh cầy hương có tuyến xạ tiết chất thơm đặc biệt, nên thịt nó mà đem nấu dựa mận theo công thức Cờ Tây thì thơm ngon vô hạn, ai mà đã một lần thưởng thức chắc chẳng bao giờ quên. Miếng thịt được thui bằng rơm nếp nương lên mầu vàng sẫm, đem nấu chung với giềng, mẻ, mắm tôm sẽ cho ra miếng thịt cầy có lớp da mầu nâu sẫm bóng nhẫy, một lớp mỡ trắng rất béo, và kèm theo là miếng thịt nạc rất mềm và vô cùng ngon ngọt. Thầy trò ông Phụng xào xáo con cầy đánh chén một bữa hết sạch, còn cái đuôi vằn vện như đuôi con hổ thì cắm vào một thanh gỗ để làm cái phất trần, có dây treo cẩn thận, trông khá ngọan mục.
Trong thời kỳ chiến tranh căn cứ Đá Chông được bảo vệ vô cùng nghiêm ngặt, bất luận nững ai không được chuẩn y mà vô tình hay cố ý xâm nhập đều sẽ bị bắn hạ mà không cần tra xét.
Nơi đây được bảo vệ bởi một đại đội bộ binh đặc biệt tinh nhuệ ở vòng ngoài, ba chiếc xe tăng T34 của Liên Xô nằm trong công sự vững chắc sẵn sàng đánh trả bất cứ một cuộc tấn công nào của biệt kích đối phương ( Một chiếc xe tăng nằm trong công sự có thể án ngữ được cả một Tiểu đoàn, một Tiểu đoàn có khoảng 300 đến 500 quân). Phía sau đồi là hai Khẩu đội súng Phòng không 14 ly 5 nhằm bắn máy bay và quân nhảy dù.
Ông Phụng, Thiếu tướng Lương Soạn và tôi đã từng câu cá quả ở đây
Trước đây đầm này hoang vu, chứ chưa được cải tạo và kè đá như bây giờ
Bóng chiếc thoi đưa ánh mắt long lanh
Trời đất Hà Tây tay em dệt lụa
Sữa trắng Ba Vì, thóc vàng khu Cháy
Hồn thơ Nguyễn Trãi dệt thành vần
Sông Tích sông Đà giăng lụa mênh mông
Đan Phượng ơi! Quê hương người gái đảm
Đồng hợp tác xanh tươi cấy cầy thẳng tắp
Anh phi công bàng hoàng ngỡ mình bay trên gấm vóc...
Xe tăng T34 của Liên Xô
Tôi đã từng bắn chim bằng súng cao su ở cánh rừng này
Tổ ong bò vẽ trông như thế này đây
Đây là nhà sàn ở Đá Chông, ảnh mùa đông năm 1967. Trong ảnh Hồ chủ tịch và
các Uỷ viên Bộ Chính trị đang bàn bạc chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy năm 1968. Trong ảnh hàng bên trái là một vị Đại tá (có lẽ là Cục trưởng Cục
Tác chiến), ông Lê Duẩn, ông Trường Chinh, Thượng tướng Văn Tiến Dũng. Hàng
bên phải là các ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt
Con gái Tướng Soạn và tôi từng lang thang nhặt sỏi tại đây
Có lần vào những năm 1978, ông Phụng còn dẫn tôi ra cây sim đang vào mùa quả chín để hái sim. Trước đây tôi đã từng nhiều lần nghe tên hoa sim qua những bài thơ, những bài hát, những đoạn văn mà chưa một lần được thấy tạn mắt. Thực tế ở Nam Định thỉnh thoảng có câu hoa mua do chim mang theo hạt từ nơi rừng núi về. Những cây thường rất nhỏ, chỉ cao độ chừng hai mưoi phân và trổ một bông hoa năm cánh mầu tím giản dị. Cây sim trên Đá Chông nom rất giống cây mua nhưng to hơn nhiều và cho rất nhiều quả. Cây này có những cành to như bắp chân người lớn xòe ra bốn phía nhưng không cao lắm. Ông Phụng cho tôi mượn khăn mùi xoa ông hay bỏ túi quần. Tôi dùng khăn mùi xoa ấy buộc túm lại thành một chiếc túi nhỏ rồi ra sức hái sim bỏ đầy tíu. Tôi còn ra công bỏ áo vào trong quần để hái sim nhét vào trong người vì một chiếc khăn mùi xoa không chứa được hết số quả mà tôi đã hái. Quả sim nhỏ như ngón tay út người lớn, khi chín có mầu tím đen, bên trong có chứa rất nhiều hạt nhỏ li ti. Sim chín ăn hơi ngòn ngọt, chan chát bình dị. Tôi mang về Hà Nội để làm quà cho bác Hồ Pha, bác này mắt sáng lên ăn sao mà nhanh thế. Tôi mới đi chơi một lúc, hình như ra máy nước để rửa chân tay về hỏi đã thấy chẳng còn quả nào.
------------------
Thiếu tướng Lương Soạn
Thiếu tướng Trần Kinh Chi
Căn phòng có những của sổ (nhà mười gian) là nơi ông Đinh Viết Phụng và Ba Đình từng ở
Thôi thôi tôi biết ông rồi
dài lưng đốm lưỡi ăn no lại nằm.
Mật
khu Đá Chông là nơi ở và làm việc của chủ tịch Hồ và các Uỷ viên Bộ
Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam trong suốt thời kỳ chiến
tranh Việt Mỹ. Mật khu Đá Chông sau này cũng là nơi cất giấu thi hài của
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1969 đến năm 1975.
Mật cứ Đá Chông, nơi có những nhũ đá nhô lên nhọn tựa mũi chông. Hồi những
năm 1977 - 1978 Ba Đình thường hay qua đây mỗi khi chạy ra sông Đà chơi
"
...Khu di tích Đá Chông thuộc huyện Ba Vì, Hà Tây, cách thị xã Sơn Tây về phía Tây khoảng 25 km. Diện tích rộng 234 ha, phần lớn là đồi rừng, có 2 hồ rộng. Nơi đây có nhiều tảng đá thon nhọn tựa mũi chông, ngọn mác như mọc ở dưới đất lên, có thể vì thế mà nhân dân địa phương gọi địa danh này là Đá Chông.
Tháng 5 năm 1957, trong một lần kiểm tra Sư đoàn 308 diễn tập bên sông Đà, thấy nơi đây phong cảnh “Sơn thuỷ, hữu tình”, thuận lợi về giao thông, Bác đã chọn nơi này làm khu căn cứ của Trung ương. Khu căn cứ có 3 khu vực: Khu A dành cho Bộ Chính trị họp và tiếp khách; khu B dành cho các đồng chí lãnh đạo nghỉ; khu C dành cho các đồng chí bảo vệ và phục vụ"....(Theo báo điện tử Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ chí Minh).
Khu Đá Chông có địa hình cực kỳ thuận lợi về mặt phong thủy. Nó được che chắn bởi núi Ba Vì hùng vĩ, lại có hai đầm nước hai bên làm chướng ngại vật, làm cho đối phương không thể tiến công trên bất kỳ quy mô nào dù là nhỏ nhất. Hai đầm nước này phủ đầy rong rêu, hai bên bờ lau lách rậm rạp, không ai biết nông sâu bao nhiêu, những cạm bẫy nào tiềm tàng dưới đó. Sở dĩ có sự bố trí khoa học như vậy là do Chủ tịch Hồ Chí Minh qua nhiều lần xây dựng đại bản doanh qua mấy năm chống Nhật - Pháp trên vùng rừng núi Việt Bắc đã rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu, và được viết theo dạng thơ như sau:
...Khu di tích Đá Chông thuộc huyện Ba Vì, Hà Tây, cách thị xã Sơn Tây về phía Tây khoảng 25 km. Diện tích rộng 234 ha, phần lớn là đồi rừng, có 2 hồ rộng. Nơi đây có nhiều tảng đá thon nhọn tựa mũi chông, ngọn mác như mọc ở dưới đất lên, có thể vì thế mà nhân dân địa phương gọi địa danh này là Đá Chông.
Tháng 5 năm 1957, trong một lần kiểm tra Sư đoàn 308 diễn tập bên sông Đà, thấy nơi đây phong cảnh “Sơn thuỷ, hữu tình”, thuận lợi về giao thông, Bác đã chọn nơi này làm khu căn cứ của Trung ương. Khu căn cứ có 3 khu vực: Khu A dành cho Bộ Chính trị họp và tiếp khách; khu B dành cho các đồng chí lãnh đạo nghỉ; khu C dành cho các đồng chí bảo vệ và phục vụ"....(Theo báo điện tử Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ chí Minh).
Khu Đá Chông có địa hình cực kỳ thuận lợi về mặt phong thủy. Nó được che chắn bởi núi Ba Vì hùng vĩ, lại có hai đầm nước hai bên làm chướng ngại vật, làm cho đối phương không thể tiến công trên bất kỳ quy mô nào dù là nhỏ nhất. Hai đầm nước này phủ đầy rong rêu, hai bên bờ lau lách rậm rạp, không ai biết nông sâu bao nhiêu, những cạm bẫy nào tiềm tàng dưới đó. Sở dĩ có sự bố trí khoa học như vậy là do Chủ tịch Hồ Chí Minh qua nhiều lần xây dựng đại bản doanh qua mấy năm chống Nhật - Pháp trên vùng rừng núi Việt Bắc đã rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu, và được viết theo dạng thơ như sau:
Trên có núi
dưới có sông,
có đất ta trồng
Có bãi ta chơi.
Tiện đường sang Bộ tổng,
thuận lối tới Trung ương.
Nhà thoáng ráo kín mái,
gần dân không gần đường.
dưới có sông,
có đất ta trồng
Có bãi ta chơi.
Tiện đường sang Bộ tổng,
thuận lối tới Trung ương.
Nhà thoáng ráo kín mái,
gần dân không gần đường.
Qua
bài thơ trên chứng tỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là một nhà chính
trị lỗi lạc, mà còn là một nhà quân sự đại tài. Khi trọn địa điểm đặt
đại bản doanh, ông thường rất chú trọng tới yếu tố Địa lợi, Nhân hoà, là
hai yếu tố sau cùng trong ba yếu tố quyết định thắng lợi của một sự
nghiệp cụ thể nào đó. Ba yếu tố đó là: Thiên thời - Địa lợi - Nhân hoà,
mà hai yếu tố sau là hai yếu tố chủ quan, do con người có thể chủ động
quyết định, nó khác hẳn với yếu tố đầu là Thiên thời, ở đây con người
chỉ đóng vai trò thụ động. Theo cách bố trí trên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thì đó là một địa điểm lý tưởng, nơi mà theo giới quân sự đánh giá
là: Tiến có thể công, thoái có thể thủ, thuận lợi nhiều đằng. Đóng quân
theo nguyên tắc trên thì phía cách mạng vừa có thể đưa đối phương vào
thế bị động khi tiến công, vừa có thể bảo toàn lực lượng, bố trí bố
phòng khi rút lui. Lại dựa hẳn được vào dân để có thể tận dụng được nhân
tài vật lực trong dân, ấy dân làm lực lượng dự bị, làm tai mắt
che chở cho mình. Trên đây Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất trú trọng xử
dụng không gian để có thể tăng gia, phần nào tự túc được lương thực,
thực phẩm cho chính quân mình. Quan điểm này xuất phát từ quan điểm xây
dựng quân đội có từ thời cổ là: "Thực túc binh cường", nghĩa là quân có
no mới mạnh, do đó ông rất trú trọng việc tăng gia sản xuất trong quân
đội.
Chảy qua khu Đá Chông là con sông Đà hung hãn như con ngựa bất kham về mùa lũ. Trước đây hai bờ sông Đà hoang dại, không bóng người, không một nhà dân. Đây cũng là một chướng ngại vật thiên nhiên hiểm hóc để vảo vệ cơ quan đầu não, và cũng là đường rút lui thuận lợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị khi có sự cố nguy hiểm xảy ra.
Chưa hết, Đá Chông còn được bảo vệ bởi khu rừng thông và rừng hỗn giao rậm rạp. Quanh rừng được bố trí nhiều cạm bẫy để đánh hạ bất cứ một cuộc xâm nhập nào của quân biệt kích đối phương. Những cạm bẫy này thường là bẫy đánh thú của đồng bào các dân tộc thiểu số hay dùng để săn bắt thú lớn. Nếu trường hợp người hay thú vô tình đụng vào sẽ bị những thanh tre to quật ngang ống chân làm cho bán thân bất toại, nằm yên chờ người đến bắt chứ không thể lê lết hòng thoát thân. Hoặc người và thú có thể bị dính bẫy treo rút lên trên cao mà không thể tự mình giải thoát được, hay có thể sa vào những hầm chông được cắm rải rác xung quanh khu mật cứ.
Chảy qua khu Đá Chông là con sông Đà hung hãn như con ngựa bất kham về mùa lũ. Trước đây hai bờ sông Đà hoang dại, không bóng người, không một nhà dân. Đây cũng là một chướng ngại vật thiên nhiên hiểm hóc để vảo vệ cơ quan đầu não, và cũng là đường rút lui thuận lợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị khi có sự cố nguy hiểm xảy ra.
Chưa hết, Đá Chông còn được bảo vệ bởi khu rừng thông và rừng hỗn giao rậm rạp. Quanh rừng được bố trí nhiều cạm bẫy để đánh hạ bất cứ một cuộc xâm nhập nào của quân biệt kích đối phương. Những cạm bẫy này thường là bẫy đánh thú của đồng bào các dân tộc thiểu số hay dùng để săn bắt thú lớn. Nếu trường hợp người hay thú vô tình đụng vào sẽ bị những thanh tre to quật ngang ống chân làm cho bán thân bất toại, nằm yên chờ người đến bắt chứ không thể lê lết hòng thoát thân. Hoặc người và thú có thể bị dính bẫy treo rút lên trên cao mà không thể tự mình giải thoát được, hay có thể sa vào những hầm chông được cắm rải rác xung quanh khu mật cứ.
Người
chỉ huy và điều hành các công tác ở mật khu Đá Chông từ năm 1969 đến
năm 1975 là ông Đinh Viết Phụng. Trước đó ông từng công tác tại Bộ Tư
lệnh Công binh trực tiếp tham gia xây dựng căn cứ, tiếc thay trước lúc
mất ông không trăng trối được gì về những tháng ngày ông tham gia xây
dựng mật khu. Ông không kể lại gì về những điều bí mật về khu căn cứ như
khu ấy rộng chừng nào, các đường hầm thoát hiểm được bố trí đến đâu,
liệu các đường hầm ấy có ăn qua sông Đà không, có vào tận chân núi Tản
không và v.v.. Khi còn đi học tôi thấy ông có một quyển vở học trò ghi
đầy các công thức về độ dầy bê tông và đất đá nhằm xây dựng công trình
chống bom nguyên tử. Trong cuốn vở, ở mỗi một đề mục ông hay vẽ một con
chim bói cá bên lề để đánh dấu cho tiện. Mới đầu tôi cũng tưởng ông có
khiếu về họa, sau tôi thấy suốt cả cuộc đời ông không vẽ được món gì
khác nên tôi rút ra kết luận là ông chỉ biết vẽ có mỗi chim bói cá. Cuốn
sổ này là minh chứng hùng hồn cho sự có mặt của ông trong quá trình xây
dựng khu mật cứ, đáng tiếc sau khi ông Phụng mất nó đã thất lạc không
sao tìm thấy nữa. Thuở còn sinh thời ông Phụng hay giảng giải cho tôi về
vũ khí, về nguyên lí xuyên phá của đầu đạn lõm, trong đó có cả nguyên
lí và tác hại của bom nguyên tử, tôi há mồm ra nghe, ù ù cạc cạc chả
lĩnh hội được nhiều.
Ông Phụng sinh quán tại xóm Bơ, xã Gia Hòa (nay là xã Nam Cường), huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông Phụng sinh ra trong một gia đình địa chủ đã tới hồi xa sút. Thời phong kiến bố đẻ của ông Phụng là Đinh Văn Tước lấy bà Cao Thị Xanh là người ở một làng khác cách xóm Bơ chừng hai cây số. Nguyên bà Cao Thị Xanh cũng là con gái của một địa chủ giàu có họ Cao ở trong làng Chùa. Thân mẫu ông Đinh Viết Phụng là bà Cao Thị Xanh có sinh được bốn người con, con cả là bác gái Đinh Thị Quýt, ông Đinh Viết Phụng, cô Đinh Thị Cam, con út là chú Đinh Văn Tấu, chú Tấu mất sớm khi mới được chín tuổi. Ông Đinh Văn Tước là người mê âm nhạc, tính tình phóng khoáng như cụ Phó Phái là thân phụ ông. Ông Tước cả đời chỉ biết ăn chơi, ông mê bát âm, mê đàn ca sáo múa những là hồ xừ xang cống xế ú líu (là cách sướng âm cổ, na ná như đồ, rê, mi, pha, son...thời bây giờ), lại thi thoảng có tí cô đầu, mọi việc ông phó thác cả cho bà Cao Thị Xanh. Ông đi lang thang chơi bời cả năm ròng có khi không về nhà, hoặc nếu có về thì cũng chỉ là để lấy thêm tìên xong ông lại đi. Thế rồi nhà cửa ruộng vườn cứ đội nón ra đi, đến một ngày kia khi tiền bạc mang theo đã cạn, sức lực yếu dần ông trở về quê cũ khi tuổi đã ngoài năm mươi. Bản tính quan liêu ông không biết động chân động tay làm một việc gì, cả ngày chỉ nằm trên võng mà hò vè, mà thi thoảng ngâm ngợi, mà lẩy Kiều...Có những hôm đương độ ngày mùa, vợ con bận tối mắt tối mũi ở ngoài đồng khi về đến nhà vừa mệt lại vừa đói khát mà ông còn nạt:
- Chúng mày đi đâu mà không đun cho tao siêu nước!
Trong khi ông ở nhà cả ngày mà lúc khát nước ông cũng không tự nấu được mà pha chè. Rồi có những hôm trời mưa làm cho thóc lúa, quần áo phơi ở ngoài sân bị ướt mà ông cũng kệ chả chịu dọn vào khiến bà chỉ còn có nước kêu trời. Ông ăn uống không sa hoa nhưng khá cầu kỳ. Ông thường thích món cá trạch, hay cá bống, tôm trứng kho thật khô trong niêu đất ăn với cơm gạo dự có kèm canh cua. Lúa dự là một loại lúa đặc biệt rất thơm ngon và dẻo, lúa này thời phong kiến thường được cấy ở Nam Định, quê hương của những giống lúa ngon nổi tiếng toàn quốc. Lúa này thân rất cao, hạt to và dài, ở đầu hạt lúa mọc thêm một sợi râu nhọn và sắc. Hồi những năm 1970 bà Cao Thị Xanh còn một thửa rộng khá lớn cấy toàn lúa dự ở ngay đầu xóm Bơ, xã Nam Cường, thửa ruộng này nằm ngay cạnh những cồn đống đầy mộ cổ không biết từ những đời nào. Có lẽ thửa ruộng này là tài sản cuối cùng của họ Đinh, dòng họ có thế lực nhất trong xóm hồi bấy giờ mà ruộng đất nhiều trải rộng đến tận nhà thờ Công giáo gần bên xóm Nguyễn. Sau này bỗng một gia đình nông dân nghèo chuyển đến ruộng ấy ở, họ làm nhà trên đám ruộng và biến ruộng lúa thành vườn trồng toàn rau đay và cây rong riềng. Hỏi bà Cao Thị Xanh thì hóa ra bà đã tự nguyện nhường thửa ruộng khá lớn ấy cho gia đình nông dân nọ để vợ chồng con cái họ có chỗ ở cho đàng hoàng. Đời bà vất vả, tuy là con một gia đình địa chủ giàu có nhưng bà thường cùng ăn, cùng làm với những đám người ở, nên bà thấu hiểu và thông cảm sâu sắc với tình cảnh của họ. Bà sống chính chuyên, phúc đức suốt cả cuộc đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, bà mất năm 1984, thọ tám mươi tư tuổi. Còn cụ Tước ông hồi ấy tuy là tay ăn chơi phá phách có hạng nhưng cũng không phải là người vô tâm. Hồi những năm 50 ông có vét được một số tiền khá lớn, thuê thợ làm hẳn một căn nhà bằng gỗ lim với những chiếc cột đen bóng dựng trên những thớt đá trông rất oách cho vợ con ở. Nhà ấy có những cái xà ngang chạm hình đầu rồng với những chiếc râu mềm mại, những chiếc nanh rồng vừa cong vừa nhọn chìa ra ngoài trông rất đẹp mắt. Trên cùng là một xà dọc được bào phẳng và khắc những chữ nho, những chữ ấy có nghĩa gì chúng tôi không hiểu được. Là người thương vợ thương con, ông Tước nghẹn ngào khóc lóc vật vã giờ lâu khi con út ông là chú Đinh Văn Tấu đang hay ăn chóng lớn, khôi ngô tuấn tú lạ thường mà sớm phải lìa đời. Ông khóc rằng:
- Con ơi bố cả đời có ăn ở ác nghiệt với ai mà giời nỡ phạt bố thế này!
Nhưng luật đời là thế, thường những đưa trẻ lúc bé đẹp đẽ hơn người thường hay sớm giã từ cuộc sống trần thế buồn vui mà về thế giới bên kia, là cuộc sống vĩnh hằng...Sau này khi bác Đinh Viết Phùng cất tiếng chào đời năm Đinh Dậu 1957, ông Tước sợ lắm, ông giấu trong nhà suốt năm trời không dám đưa cháu ra ngoài, ông cấm cẳn không cho ai sờ tay vào cháu ông.
Ông Đinh Văn Tước mất năm 1960, thọ sáu mươi tuổi.
Hồi còn nhỏ ông Phụng được gia đình cho đi học chữ nho, rồi học chữ quốc ngữ ở trên huyện. Ngày tôi còn nhỏ ông hay cắt nghĩa chữ nho cho tôi nghe những là "nhân chi sơ", rồi "tính bản thiện" v.v. lần đầu tôi nghe những từ ngoại quốc lạ hoắc nên chỉ thấy buồn cười, nghe mãi thành quen nên tôi cũng võ vẽ suy luận được vài từ gốc Hán. Rồi sau này chắc do tình cảnh gia đình sa sút dần nên ông Phụng không có điều kiện để để tiếp tục theo học nữa. Ông bí mật tham gia hoạt động cách mạng, tham gia tổ chức các đội vũ trang chiến đấu chống phát xít Nhật và thực dân Pháp để giải phóng Tổ Quốc như lòng mong mỏi của tuyệt đại bộ phận nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Không biết ông Phụng tham gia du kích địa phương từ năm nào, ông không kể nhiều, chỉ biết hồi ấy ông sống và chiến đấu trong hoàn cảnh cực kỳ thiếu thốn và gian khổ, tính mạng nhiều lúc như trứng để đầu gậy. Tuy là một cán bộ cốt cán của phong trào du kích địa phương nhưng ông chỉ có độc hai bộ quần áo nhuộm củ nâu, một nắm cơm với mấy hạt muối, thanh mã tấu và quả lựu đạn do Quân giới Việt Minh tự chế tạo. Gọi là lựu đạn cho oai nhưng do hồi ấy trình độ sản xuất của Quân giới có hạn, lại sản xuất trong tình trạng bị Pháp kiểm soát, càn quyét gắt gao nên chất lượng không được tốt lắm. Lựu đạn ấy hình tròn như quả trứng dùng để tự sát khi sa vào tay giặc, bảo đảm bí mật và an toàn cho những tổ chức chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Ngày ấy, vào khoảng những năm 1946 - 1947 quân Pháp ra sức càn quét vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng gồm các tỉnh trọng điểm như Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình...là những hậu phương quan trọng cung cấp người và của cho công cuộc kháng chiến cứu quốc anh dũng của nhân dân Bắc Bộ. Hồi ấy ở Nam Định ông Phụng đang là một thanh niên trai tráng, lại có chút ít học hành nên thuộc vào hàng cốt cán. Ông được giao nhiệm vụ thu thập tin tức về những cuộc hành quân để từ đó lập lên phương án đặt mìn phá hủy xe cơ giới của quân Pháp. Vào thời điểm ấy quân du kích Việt Minh hay trôn mìn tự tạo để diệt xe cơ giới, nhưng do chưa có kinh nghiệm nên Quân giới Việt Minh chưa chế được mìn tự nổ mà phải dùng dây để giật. Hành động này là hành động quyết tử, bởi sau khi giật cho mìn nổ tất đối phương sẽ phản ứng bằng cách cho quân lục soát xung quanh. Người giật mìn sẽ nắm chắc cái chết trong tay nếu không mau rút lui thật nhanh và bí mật, chuyện trốn thoát được cũng khó như bay lên trời vậy.
Sau nhiều lần xe cơ giới, trong đó có cả xe tăng của quân Pháp bị trúng mìn trên đường càn quét nên họ trở nên thận trọng và hung hãn hơn. Thường thường ban đêm quân Pháp xử dụng bọn chỉ điểm, tề ngụy dẫn lính dõng đi càn quyét, sục sạo hai bên đường. Có lần ông Phụng phải nằm cả đêm dưới ao vì quân Pháp và lính Việt Nam theo Pháp mai phục lâu như đỉa đói. Ông đành phải nằm im để mặc cho hàng chục con đỉa đói khát bám vào người ông mà hút no căng mắu, con nào con nấy đỏ mọng như ngón tay, đeo lủng lẳng, nhầy nhuạ trên người trông đến phát khiếp mà ông không dám động đậy. Ông biết thà để cho đỉa hút hết máu còn hơn là sa vào tay quân địch để rồi phải chịu những đòn tra tấn thảm khốc, man rợ, mà gớm guốc nhất là trò treo lên xà nhà để đấm đá, rồi cắt gân, xẻo thịt, chặt đầu... Mãi sau, phải đến gần sáng địch rút ông mới dám bò về nhà bà cụ thân sinh để thay quần áo và đốt rơm rạ hơ cho ấm người. Bà nội sau này kể rằng, khi về tới nhà ông đưa tay vuốt hai ống chân làm cho hàng chục con đỉa no căng, kềnh càng tự động rơi xuống nền nhà, chúng uống no tới nỗi nôn ra máu người rơi rớt khắp nơi trên đường chúng bò. Có lần ban đêm ông ngồi phục trong bụi tre để chờ giật mìn, ông ngủ gật đập mặt vào gốc tre mới chặt nhọn hoắt toạc cả sống mũi, nên mũi ông có vết sẹo dài chạy dọc theo.
Có lần ông bị cảm thương hàn, người nóng dữ dội không tiếp tục hoạt động được, phải bí mật ở nhờ trong chùa để các sư sãi tiện bề che giấu, coi sóc ông. Vì quá nóng trong người nên đang đêm ông mò xuống ao ngâm đến tận cổ trong đêm đông giá rét căm căm. Sư sãi trong chùa tá hỏa, phần vì sợ ông chết rét, phần vì lo có kẻ chỉ điểm phát giác thì không những ông phải bị hiểm nguy mà nhà chùa cũng bị vạ lây. Thế là các sư sãi ra sức dỗ dành ông mới chịu lên. Họ dìu ông trở lại chùa nghỉ ngơi trong tình trạng nửa tỉnh, nửa mê của căn bệnh thương hàn quái ác đã làm không ít người dân Việt Nam mất mạng.
Lại có lần ông và một số đồng chí khác giả làm nông dân đi chợ sớm để luồn sâu trinh sát để đánh bốt Phú Gia cũng để lại trong ông những kỉ niệm buồn thương khó quên. Số là ngày ấy quân Pháp câu kết với một số cha cố ở nhà thờ Phú Gia dưới xóm Nguyễn để cùng nhau lập liên minh chống cộng rất hữu hiệu. Quân Pháp đã triệt phá được khá nhiều cơ sở của Việt Minh, nhiều cán bộ bị giết, hoạc bị bắt về bốt tra tán dã man. Trước tình hình rất xấu đó, các cấp lãnh đạo Việt Minh mật họp hạ quyết tâm đánh bốt Phú Gia, phá thế kìm kẹp của địch. Việc đánh bốt cũng là để cảnh cáo những Việt gian cam tâm làm tay sai cho Pháp gây thiệt hại lớn cho phía cách mạng. Ông Phụng mặc bộ quần áo nâu, đầu đội nón rách, tay vác đòn càn (một loại ống tre vót nhọn hai đầu để gánh lúa, có nơi gọi đòn sóc), từ sáng sớm tinh mơ đã lên đường giả làm người đi chợ để vào chợ.
Ông đội nón xùm xụp để che mặt rồi ung dung đi vào chợ. Khi tới cổng chợ ông chợt pha phải vật gì treo lủng lẳng phía trên, giật mình nhìn lên thì hóa ra một đồng chí của ông bị địch treo nơi cổng chợ và đã chết cứng từ bao giờ.
Quân Pháp ngày càng cáo già, và hung bạo. Thỉnh thoảng họ lại vô cớ bắn móc chê, nã đại liên vào những làng xóm của thường dân khiến cho lửa cháy ngút trời, tiếng kêu khóc ai oán vang lên khắp mọi nơi. Họ bắt người già cả, là cha mẹ của những cán bộ du kích Việt Minh đi trước để dò mìn, để Việt Minh không dám đặt mìn. Họ còn đe dọa, bắt bớ, tra tấn, giết hại những người bị tình nghi làm cho dân chúng đã khốn đốn vì đói khát, lại còn phải sống trong cảnh nơp nớp lo sợ. Ở những nơi du kích tổ chức phá đường để cản bước tiến của họ thì họ trả thù thâm độc bằng cách bắt dỡ ngay nhà của gia đình những người tham gia kháng chiến để lấp thế vào. Họ bắt nhân dân đi phu để đắp đường, để xây dựng đồn bốt khiến nhân dân vô cùng lầm than khổ cực.
Không rõ ông Đinh Viết Phụng trở thành bộ đội chủ lực khi nào, chỉ biết năm 1949 ông đã là Trung đội trưởng Vệ quốc đoàn đóng ở Nho Quan - Ninh Bình. Ông vóc người tầm thước, trẻ đẹp súng sính trong bộ quân phục màu nâu, cổ cuốn tấm khăn chiến lợi phẩm làm bằng vải dù thu được của quân Pháp trông cũng oách. Khoảng những năm 1950, sau khi đại bại ở chiến dịch biên giới, quân Pháp giật mình nhận ra sự lớn mạnh không ngừng và nguy hiểm của Việt Minh cả về số lượng lẫn chất lượng. Quân Việt Minh đã có những tổ chức quân đội lên đến cấp Đại đoàn (tức Sư đoàn ngày nay). Các tổ chức quân đội ấy là Đại đoàn 308, 320, 316, 304, 312, sau này thành lập thêm các đơn vị lựu pháo, pháo phòng không và Công binh. Nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Việt Minh xuống vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, quân Pháp đã liên tiếp mở hàng loạt những cuộc hành quân càn quét suốt từ Lạng Sơn cho đến các tỉnh phía nam của vùng đồng bằng như Ninh Bình, Thanh Hóa. Quân Pháp biết rằng Việt Minh cần rất nhiều người và lương thực, thực phẩm, vải vóc, thuốc men, nguyên vật liệu phục vụ cho công cuộc kháng chiến - kiến quốc của họ. Nếu phong tỏa được vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, bẻ gãy được mưu đồ dựa sức dân để trường kỳ kháng chiến của Việt Minh, quân Pháp sẽ làm chủ cục diện chiến tranh, sẽ đẩy được Việt Minh vào thế suy yếu, Việt Minh sẽ không thể tổ chức những chiến dịch gây thiệt hại lớn cho Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Trường Chinh và Tướng Giáp đã sớm tính tới khả năng này nên đã có những hành động đối phó hữu hiệu. Một mặt Bộ Tổng tư lệnh mở các chiến dịch lớn nhằm đập tan các tuyến phòng thủ của quân Pháp, phá ách kìm kẹp, mở rộng vùng tự do để sử dụng được nguồn nhân tài vật lực trong dân. Mặt khác Việt Minh chủ động đẩy mạnh chiến tranh du kích quy mô nhỏ trên khắp các chiến trường làm cho lực lực lượng quân Pháp bị phân tán, chống đỡ rất vất vả.
Hơn nữa Việt Minh còn mở rộng chiến tranh chính trị, tăng cường tuyên truyền lòng yêu nước, sử dụng cả Văn hóa, Văn nghệ như một vũ khí sắc bén thu phục lòng người ở khắp mọi nơi, mọi tầng lớp nhân dân là điều quân Pháp chưa bao giờ làm được. Chính những thành công trên mặt trận chính trị là yếu tố quyết định thắng lợi của Việt Minh trên chiến trường Đông Dương, vì nó cổ vũ tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh thà chết không chịu lùi của các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, cổ vũ lòng hy sinh vô bờ bến trong sự tiếp tế hậu cần của nhân dân hậu phương. Nó tạo được lý tưởng giải phóng Tổ quốc trong hầu hết mọi tầng lớp dân chúng từ Nam chí Bắc, làm động lực thúc đẩy, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của quân và dân Việt Nam lúc bấy giờ, tạo sức mạnh tổng lực, toàn diện đẩy nhanh quân Pháp đến chỗ thất bại. Ngoài ra những hoạt động đấu tranh tuyên truyền còn góp phần làm cho quân Pháp bị cô lập. Lực lượng người Việt chiến đấu cho Pháp không còn chỗ đứng trong nhân dân nên họ làm việc trong sự bị động hoàn toàn, trở nên hoang mang mơ hồ, sức chiến đấu suy giảm rõ rệt, và chán ghét chiến tranh.
Thật là những ngón đòn bậc thầy làm cho quân Pháp phải đối phó ở khắp mọi nơi, không thể có cơ hội tổ chức một cuộc phản công lớn đánh vào những cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến đặt trên vùng rừng núi Việt Bắc. Qua đó những cơ quan này có điều kiện rảnh tay thi hành một loạt những cuộc cải tổ Hành chính, củng cố vững chắc và làm mạnh thêm nhiều tổ chức kháng chiến của họ. Mặt khác, qua thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình, Việt Minh khai thông được hành lang vận tải giữa chiến khu Việt Bắc với khu ba và khu bốn. Âm mưu chia cắt đường giao thông tiếp tế, cô lập làm suy yếu chiến khu Việt Bắc của Pháp bị đập tan. Hồi ấy ông Đinh Viết Phụng từng tham gia nhiều trận đánh trong chiến dịch Biên giới nhằm phá vỡ vòng cương tỏa của Pháp, giải phóng và khai thông một vùng đất rộng lớn và các đường giao thông quan trọng nối liền Việt Nam với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông bị đạn xuyên qua đùi phải nằm Quân y viện mất vài tháng trời, sau đó trong một trận khác lại bị mảnh lựu đạn phạt ngang ống chân may sao không phạm vào xương. Ông bị thương vào đùi trong lần công đồn do súng trung liên quân Pháp trong đồn bắn ra làm xuyên thấu ngực một chiến sĩ Việt Minh, người thứ hai bị xuyên qua bụng, còn ông thì bị vào đùi. Ông bảo, lúc ấy ông bỗng thấy một cảm giác hụt hẫng, thấy mát mát ở đùi, ông đưa tay xuống sờ thì thấy một vết thương toang hoác máu tuôn sối xả. Kết thúc trận đánh ông được đưa vào Quân y viện để các Y tá dùng kéo cắt lớp vải quần rách bươm, cùng cắt luôn cả những miếng thịt lùng bùng nát bấy đã tím tái và không còn cảm giác. Cũng trong một lần công đồn khác ông bắt được một viên Sỹ quan Pháp, tay này biếu ông một khẩu súng lục rất nhỏ dùng để tự sát khi lâm vào bước đường cùng. Viên Sỹ quan Pháp được ông tha mạng, còn súng thì ông cất đi để làm kỉ vật chiến trường, sau này trên đường hành quân trên Việt Bắc ông đánh rơi đâu mất. Điều này cũng thật đáng tiếc, bởi nếu ông còn giữ được khẩu súng ấy thì nó sẽ là một kỉ vật của những bậc tiền nhân để lại cho hậu thế mai sau. Ông Phụng nói khẩu súng ấy nhỏ nhắn có báng súng làm bằng sứ trông rất lạ mắt.
Ông đã trải qua những tháng ngày chiến đấu gian khổ trong vùng địch tạm chiếm, đã có lần một mình đi công tác trong địa hình rừng núi hoang vu của tỉnh Hòa Bình đầy thú dữ. Lịch sử Quân đội còn ghi những cái chết đau thương của bộ đội do bị hổ ăn thịt trong lúc đang đứng gác tại dốc Cun ở tỉnh Hòa Bình. Ông bảo kinh nghiệm của bộ đội khi ấy là gặp hổ phải thật bình tĩnh, từ từ ngồi xuống nhặt hai viên đá ra sức gõ thật mạnh, hổ bị âm thanh bất ngờ, chói tai sẽ bỏ đi. Khi ngủ ban đêm phải nhớ cắm mấy cọc nhọn quanh mình, mắc màn vào những que ấy, hổ sợ vật nhọn, lại sợ các móng vuốt mắc vào màn nên không dám vồ người. Ông bảo có những lúc trên đường đi công tác mấy ngày không gặp một bóng người. Chúng tôi nghe chuyện thì sợ lắm, tôi lại mường tượng cảnh rừng đêm tối tăm mịt mùng với hàng muôn ức những cây cổ thụ vươn những cánh tay, những bộ rễ loằng ngoằng ma quái trên nền trời âm u nạt nộ. Ở mỗi gốc cây ấy ma quỷ tụ tập để làm nơi trú ngụ, những oan hồn chết thảm nơi đầu đường xó chợ, những bóng ma không người hương khói vật vờ, lẩn quất, những bóng lửa lân tinh lạnh lẽo chập chờn chỉ chờ có bóng người đi qua là bám lấy, mà trêu ghẹo. Dân gian còn ghi nhận những truyện kể về yêu ma như chúng thường biến thành những cậu bé đi lang thang trong rừng đêm mịt mùng mà cất tiếng khóc ngẹn ngào ai oán, lúc lại rú lên những tràng cười rợn người, sởn tóc gáy. Ghê gớm hơn nữa chúng còn biến thành những cô gái đẹp, dáng vẻ thùy mị đoan trang mà cất lên tiếng hát êm dịu, quyến rũ người ta ngủ lại nhà mình trong rừng sâu, để rồi sáng hôm sau nạn nhân phát hiện ra là mình đang nằm trên một ngôi mộ cổ được chôn không biết từ đời nào. Rồi thì những tiếng kêu rờn rợn của những giống cú, tiếng thở phì phì lạnh lẽo chứa đầy chất độc của trăn gió, tiếng gầm gừ chết chóc của hổ báo, những tiếng hú gọi hồn rợn người của các giống sài lang...Ông Phụng đã từng trải qua những tháng ngày gian khổ trong chiến tranh như thế. Vì tò mò, tôi hỏi ông là trên đời này có ma hay không, ông cười lắc đầu. Tôi biết vì giữ vững lập trường và tin theo thuyết Duy vật biện chứng, lại là cán bộ nên ông bài trừ mọi hủ tục, mọi thứ tín ngưỡng thuộc về dị đoan. Nhưng khi tôi hỏi ông về chuyện ngày xưa bị què thì ông không trả lời. Chuyện như thế này:
Số là này xưa, có lần bà cụ thân sinh ra ông Phụng là bà Tước bà thổi cơm xong, chờ mãi không thấy ông về ăn nên chủ động đi gọi. Xóm Bơ hồi ấy rất nhỏ, chỉ đi ít phút là hết xóm mà bà gọi mãi không thấy ông Phụng trả lời. Thất kinh bà huy động mọi người đèn đuốc đi tìm, ra cả sông ngòi hồ ao tìm cũng không thấy ông đâu, ai cũng tưởng ông Phụng bị ma đưa ra sông ra ao chết đuối ở đâu rồi. Chợt có người nêu ý kiến là nên đi tìm ông ở những khu vườn hoang nằm rải rác phía sau làng xem sao vì ông Phụng là tay leo trèo rất giỏi, hàng ngày vào mỗi độ hè ông hay leo cây tìm tổ chim, bắt chim non về nuôi hay bắt chim ra ràng đem nướng chia cho chị gái, em gái ông ăn. Mọi người lần đến gốc cây si ở gần đền Thành Hoàng thì thấy ông Phụng nằm còng queo dưới gốc cây từ bao giờ. Chân tay ông co quắp, ông không nói được nữa nên mặc dù đã nghe gọi tên mình hàng mấy tiếng đồng hồ mà ông không thể trả lời. Khi được mang về nhà ông nằm liệt giường hàng tháng trời, cơ thể bị đắp thuốc đen xì như da trâu, hai chân ông quặt sang hai bên bất động, các ngón tay co quắp không duỗi ra được, không cầm nắm được. Mỗi khi bà Tước bà đi chợ Cà hay mua bánh đa cho ông, vì ông rất thích bánh đa. Bà để bánh ấy trước mặt ông Phụng, ông lại dùng những bàn tay co quắp ấy đập vào tấm bánh cho vỡ ra, sau đó lấy miệng gắp những miếng bánh vụn mà ăn. Ông Phụng cứ nằm đấy mãi, bất động và không nói được, gia đình chạy chữa thuốc men đã nhiều, tốn kém không biết bao nhiêu là tiền mà bệnh tình ông không hề thuyên giảm. Tình hình bệnh tật của ông tưởng chừng tới chỗ bế tắc thì chợt có người bàn với bà Tước bà là nên cúng cho ông xem sao. Người ấy tin rằng ông phạm vào của đền, của chùa nên bị Ngài quở mà bẻ gãy chân tay ông để trừng phạt, nay gia đình sửa lễ mang ra đền cầu cúng lòng thành chắc các Ngài đánh chữ đại xá.
Nguyên đền này được xây dựng từ đời vua Lê để thờ ông Đinh Bắc. Ông Đinh Bắc là một trong những lãnh tụ nông dân nêu cao ngọn cờ khởi nghĩa phù Lê - diệt Trịnh của lãnh tụ nông dân Vũ đình Dung. Ông Đinh Bắc là một tướng trẻ, tuổi ngoài hai mươi, ngoại hình tuấn tú, võ công cao cường, chí khí hơn người. Ông chủ tâm lấy xóm Bơ làm căn cứ khởi nghĩa, từ xóm Bơ ông lập thêm trại quân nơi xóm Cầu, nay còn gọi là Trại Cầu chính là để ghi nhớ nơi đặt quân doanh của nghĩa quân. Xóm Bơ thời trước là một doi đất nổi lên giữa những đầm hồ ngập nước bốn bề, địa hình tuy cũng gần đường nhưng không thể hành quân đường bộ, muốn ra vào xóm Bơ người ta phải dùng thuyền. Nghĩa quân hoạt động rất tích cực, chẳng bao lâu thanh thế đã vang xa và gây ảnh hưởng tới những vùng lân cận như Thái Bình, Ninh Bình. Nguyên cuộc khởi nghĩa nổ ra tại xã Ngân Gìa, huyện Nam Trực, trấn Sơn Nam hạ nên còn gọi là khởi nghĩa Ngân Gìa.Trước tình hình cấp bách ấy, năm 1740 Nghị Tổ Ân Vương Trịnh Doanh tuy mới lên ngôi chúa chưa lâu đã thân chinh đốc lĩnh các quân thủy bộ đi đánh dẹp Ngân Gìa. Một đạo quân lớn chẩy thành một hàng dài theo con đường cái bằng đất xưa kia vốn rất nhỏ hẹp để tiến vào Ngân Già. Đi đầu hàng quân là tiền quân với những chiến binh mặc áo chiến ngắn, chân quấn xà cạp, nai nịt gọn gàng múa những thanh đoản đao sắc lẻm đi trước dẹp đường. Tiếp đó là một đội quân kéo theo hỏa pháo đúc bằng đồng thau vàng chóe đặt trên những giá súng có bánh xe nhỏ bằng gỗ, những chiếc đuốc dài để mồi pháo được đốt lên chập chờn ma quái trong ánh mặt trời. Ngay sau đội quân kéo pháo là một tốp quân lính khác khiêng những chiếc trống đại bọc bằng da trâu, những chiếc cồng lớn bằng đồng đỏ và những chiếc kèn miệng loe bằng gỗ. Nghị Tổ Ân Vương Trịnh Doanh lưng đeo bảo kiếm, mình mặc áo chiến bằng lụa đỏ, tay phất cờ hiệu uy nghi ngồi trên kiệu giữa trung quân. Xung quanh chúa là những chiến binh trẻ khỏe cầm khiên che dỡ tên đạn cho chúa. Những hổ tướng cầm cờ và trường kiếm, tay nắm chắc súng hỏa mai túc trực bên cạnh sẵn sàng chờ lệnh. Rồi sau đó là hậu quân múa giáo sẵn sàng đánh chặn bất kỳ một cuộc tập kích nào, đồng thời bảo vệ cho đám hỏa đầu quân lặc lè gánh những chiếc chảo đồng, những tải gạo, sọt rau, rổ thịt nặng nề mà mỗi khi hạ trại là họ nấu nướng phục vụ cho cả đạo quân. Đoàn quân ấy chiêng trống vang lừng, gươm giáo lấp lóe sáng lòa cả một góc trời. Những lá cờ đuôi nheo, những tấm phướn bay phần phật trước gió, tiếng quân reo, tiếng ngựa hí kèm tiếng trống, tiếng cồng, tiếng kèn xen lãn tiếng quát tháo vang rền cả một vùng. Dân xã Ngân Gìa kinh sợ bảo nhau cửa đóng then cài, không ai dám ra đường, họ chỉ dám hé mắt qua khe cửa mà nhìn trộm. Thật không hổ danh nhà chúa đã đánh dư trăm trận, đã thủ tiêu chế độ nhà Mạc, đã đánh dẹp hàng lọat những cuộc khởi nghĩa vùng miền Bắc và cũng đã từng có lần kéo quân vào đại bản doanh của chúa Nguyễn mãi tận Quảng Nam để tranh hùng. Quân đội nhà chúa lúc bấy giờ đã có lúc đông tới mấy vạn tinh binh. Khi tới Ngân Gìa, chúa Trịnh cho trấn chỉnh quân ngũ, một viên tiểu tướng đứng trên đài cao dùng loa tay đọc hịch đánh dẹp trước ba quân, phủ dụ vỗ yên dân chúng Ngân Già, rồi nhà chúa phát pháo lệnh mở màn cuộc tấn công.
Quân Trịnh hùng hổ đồng loạt tấn công Ngân Gìa gồm cả hai quân thủy bộ từ nhiều phía. Nghĩa quân chống trả ác liệt song không sao địch được quân đội chính quy mạnh hơn cả số lượng lẫn chất lượng, được trang bị tốt, được cung cấp hậu cần đầy đủ lại có kinh nghiệm chiến đấu trải qua hàng trăm trận của quân Trịnh. Cuộc khởi nghĩa Ngân Gìa của Vũ đình Dung và nghĩa quân Sơn Nam đương nhiên thất bại.
Sau khi dẹp được khởi nghĩa Ngân Gìa, quân Trịnh trả thù vô cùng thảm khốc mà nhiều địa danh hiện tại ở xóm Bơ còn mang dấu ấn của những cuộc tàn sát tập thể hồi ấy. Quân Trịnh bắt hết những người tham gia khởi nghĩa đem ra cánh đồng rồi chém chết hết. Quân Trịnh không cho gia quyến những người chết được mang xác người thân đi chôn...nên ruộng ấy sau này còn gọi là ruộng dòi. Họ còn đem xác những nghĩa quân bị giết đem vứt xuống ao rồi sai đổ đất lấp đi nên dân gian còn gọi là ao lấp. Nguyên ao ấy sau này thuộc về nhà ông Bùi văn Phổ ở ngay trước nhà ông Tước. Thủ lĩnh nghĩa quân là Vũ đình Dung bị bắt cũng bị nhà chúa sai đem chém. Chưa hết nhà chúa còn bắt đổi tên Ngân Gìa thành Lai Cách, nghĩa là nơi ấy sẽ không còn ai đến nữa. Sau này, khi chúa Trinh suy vong, vua Lê tưởng nhớ công ơn tôn phù của nghĩa quân nên hạ chiếu chỉ dụ dân xây đền thờ, lại phong thần cho ông Đinh Bắc làm Thành hoàng làng, đổi tên Lai Cách thành Gia Hòa (nay là xã Nam Cường). Hiện tại đền ấy vẫn còn giữ được sắc phong thần của vua Lê với đại ý trẫm mong Thành hoàng làng phù hộ cho thần dân của trẫm ở làng ấy ăn nên làm gia, an khang thịnh vượng v.v... Mãi về sau này, đến thời vua Khải Định nhà Nguyễn trị vì, bỗng một hôm có vị Khâm sai đại thần từ Huế vâng mệnh vua ra dẹp loạn cõi bắc đi ngang qua đền, trông thấy đền ấy quang cảnh tốt tươi, cây cổ thụ hùng vĩ bốn bề, lại nghe chim khách hót véo von xung quanh nên lấy làm lạ lắm mà quát quân lính dừng kiệu để xem thực hư ra sao cho rõ sự tình. Vị đại thần nọ mình mặc áo gấm thêu hình chim hạc của văn quan, tay cầm quạt quỳ, đầu đội mũ cánh chuồn, chân đi hia, khoan thai vào đền. Chỉ thấy ngôi đền mái ngói thâm nâu u tịch, bên cạnh có cây si cổ thụ hùng vĩ, tán lá rộng lớn che khuất cả một khoảng trời . Ngài lại thấy những vườn trồng cỏ tranh mượt mà xinh tốt, bướm vàng và các giống chuồn chuồn xinh đẹp dập dìu hội tụ. Đằng sau ngôi đền trông ra một dải đồng bằng mênh mông đẹp như tranh vẽ, xung quanh vượng khí toát lên tốt tươi với những con sông, những đầm nước phản chiếu mây xanh bao la thanh bình. Gần cổng đền, mé bên trong là một ngôi Phủ tuy nhỏ nhưng toát lên một làn linh khí lạ lùng, xung quanh trúc xe điếu mọc rậm rạp thần bí. Không dám khinh xuất, vị Khâm sai nọ vội vàng quát bảo tả hữu sửa lễ gồm hương hoa nải quả và mấy thứ rượu chè dâng lên rồi tự mình làm lễ khấn vái cầu xin Thành hoàng hết lòng phù trợ để hoàn thành sứ mạng vua sai. Sau khi làm lễ xong, vị đại thần lại lên đường mà tiếp tục công việc dẹp loạn, và đã thành công xuất sắc. Sau khi trở lại Kinh thành Huế, vị đại thần không dám trễ nải lập sức thảo sớ tâu vua, không quên nhắc đến công lao của Thành hoàng làng Bơ. Vua Khải Định xem sớ tấu thì khen thầm vị Khâm sai là người trí dũng, ăn ở có trước có sau. Nhà vua nhân khí trời mát mẻ dễ chịu, lại vừa xem hát xong, lấy làm vui vẻ, mặt rồng hớn hở bèn chuẩn tấu, hạ chiếu chỉ phong thần cho Thành hoàng xóm Bơ. Như vậy Thành hoàng xóm Bơ được hai lần phong thần, một sắc phong của vua Lê, một sắc phong của vua Khải Định nhà Nguyễn. Khỏi cần phải nói người ta cũng có thể mường tượng được cái không khí của dân làng trong ngày đón nhận sắc phong vua ban tưng bừng đến thế nào. Một vị quan Khâm sai và một đoàn tùy tùng, binh lính xuất hành từ Kinh đô Huế nhắm hướng Bắc mà đi. Vị Khâm sai nọ cưỡi ngựa vua ban với yên cương gắn lục lạc bằng bạc, được thêu thùa bằng chỉ ngũ sắc và kim tuyến rất đẹp. Bốn năm gia nhân cầm những cái lọng sang trọng che cho quan mỗi khi trời mưa hay nắng. Lúc mỏi ngài chuyển xuống đi kiệu do những người lính khỏe mạnh khiêng bằng chiếc đòn gỗ cong, sơn vẽ cầu kỳ. Viên khâm sai và đoàn tùy tùng ngày đi đêm nghỉ, đoàn đi tới địa phận nào thì những viên quan trông coi địa phận ấy phải khăn áo chỉnh tề ra lậy chào và cung đốn đồ ăn thức uống cùng nơi ăn chốn ở cho đoàn. Đoàn đi mất gần hai tháng mới đến được tỉnh Nam Định ngoài sứ Bắc. Đích thân quan Tổng đốc tỉnh Nam Định ra vái chào. Quan Tổng đốc mở tiệc đón tiếp long trọng, lại mời đoàn tạm nghỉ rồi thảo công văn cho quan huyện Nam Trực. Quan huyện Nam Trực bèn sức trát cho đòi chánh tổng, lý trưởng trông coi bản hạt lên trực tiếp cùng các quan tỉnh bàn bạc kế hoạch tổ chức lễ đón rước sắc phong vua ban. Đường vào xóm Bơ từ mấy hôm trước đã được sửa sang phong quang đẹp đẽ. Nhà nhà dọn dẹp quét tước ngõ xóm sạch sẽ, những bức mành được cuốn lên. Gà chó trâu bò được đem nhốt lại, trẻ con bị cấm không được hò la hay leo trèo ngịch ngợm làm kinh động tới buổi lễ. Các vị chức sắc, vị tiên chỉ làng và các bô lão ăn mặc quần chùng áo dài, đầu đội khăn xếp đứng khoanh tay cung kính hai bên đường sẵn sàng nghênh tiếp. Quan khâm sai mình mặc đồ đại lễ rực rỡ dẫn một đoàn tùy tùng đông đúc với cờ xí phấp phới, hai bên quân lính gươm giáo sáng lòa. Ở giữa đoàn người là một viên tiểu quan do Bộ Lễ sai đi . Viên tiểu quan này dáng dấp khỏe mạnh, ăn mặc tinh tươm sạch sẽ. Hôm trước anh ta đã được cho tắm nước hương, đầu đội một chiếc hòm sơn son thếp vàng trong đựng sắc phong nhà vua. Đoàn rước sắc phong từ từ tiến vào đền và làm các nghi lễ đón tiếp trong tiếng trống, tiếng thanh la rộn ràng. Một viên quan dùng loa tay dóng lên thông báo cho toàn thể dân làng được biết, rồi người lý trưởng làng cùng vị tiên chỉ, các bô lão quỳ xuống, hai tay giơ cao sắc phong nhà vua ngang trán mà lạy tạ. Sau khi lạy tạ xong các vị chức sắc làm lễ an vị đạo sắc phong vua ban để thờ trong đền.
Tôi nhớ hồi còn sống ma cụ Tước bà thường hay kể chuyện về sự linh thiêng lạ lùng của ngôi đền như là nếu ai đi ngang qua đền mà không bỏ mũ hay nón ra tất sẽ bị phạt. Người ấy đang khỏe mạng bỗng dưng lăn ra ốm, gia đình phải sửa lễ mang ra đền cúng bái mới khỏi. Hay là trâu bò đi qua mà vô tình lè lưỡi bứt một chiếc lá, một cành nhỏ cũng bị trướng bụng mà chết. Dân gian còn truyền rằng có một bà nọ, vào những năm của thập kỉ 80, nhân ngày lễ cúng cô hồn có vào quét dọn. Bà này dâng hương trong phủ xong rồi cứ tự tay tát vào mặt mình mà kêu lên hai tiếng "ô uế". Người ta đồn rằng nguyên bà này không chịu tắm táp sạch sẽ, lại mặc đồ dơ bẩn mà dâng hương nên đã bị ngài quở để làm gương cho những người khác. Chuyện dân gian đồn đại chẳng biết thực hư thế nào. Ở dưới gốc cây si gần đền có cái lỗ rất sâu ăn từ thân cây xuống tận dưới đất không biết có từ bao giờ. Bà Tước bà còn khẳng định rằng trong hốc cây ấy trú ngụ một con rắn có mào, gọi là ông Mào. Vào những đêm trăng ông thường nằm trong bộng cây mà thò cổ ra ngoài, chiếc mào mọc trên đầu, lại thòng xuống cổ như những dải yếm trông vô cùng kỳ dị linh thiêng. Hoặc những đêm mưa thâm tối trời ông rời bỏ hang ổ mà bò ra đường, ông nằm phơi sương trên những gò đống, toàn thân ông trắng lốp có điểm những vẩy hồng và vàng trông vô cùng lạ mắt. Không rõ thường nhật ông xơi gì, chỉ biết trong xóm không bao giờ mất trộm gà vịt. Có lẽ tới lúc đói quá ông mới bò ra ngoài tìm xơi vài con chuột. Cũng có người nói ông xơi đồ thờ cúng trong đền ngoài phủ. Nhưng những đồ thờ cúng hôm trước, hôm sau thấy vẫn còn nguyên không hề suy chuyển, chứng tỏ ông không đụng vào. Người ta lại đồn ông là rắn thần, nên chỉ ngửi hương hoa để giữ mình thanh sạch chứ ông không ăn đồ phàm tục như những giống vật khác. Mỗi người nói mỗi kiểu, chả biết thế nào.
Sau này, khi phong trào hợp tác xã phát triển rầm rộ ở miền Bắc đã làm cho bộ mặt nông thôn Việt Nam thay đổi trông thấy. Ngày ngày tiếng loa truyền thanh vang lên phát đi những chủ trương, chính sách của Đảng, những bài hát làm sống động không khí nông thôn vốn tịch mịch thanh bình. Đêm đêm những đoàn thanh niên, thiếu niên, nhi đồng hát múa, tập nghi thức rộn ràng với tiếng trống, tiếng phách tới tận khuya. Rồi những đám cưới nông thôn diễn ra náo nhiệt với tiếng nhạc, tiếng cười nói ầm ĩ canh thâu. Những bài hát hay được phát ngày ấy là những vở chèo, những vở cải lương về đề tài chiến đấu của nhân dân Miền Nam và sau này còn xuất hiện những bài như "Cô gái tưới đậu". Những bài hát thiếu nhi cũng hay được hát như "Em là búp măng non, em lớn lên trong mùa cách mạng" hay là bài hát "Mời anh đến thăm quê tôi" của nhạc sĩ Nguyễn đức Toàn:
Ông Phụng sinh quán tại xóm Bơ, xã Gia Hòa (nay là xã Nam Cường), huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông Phụng sinh ra trong một gia đình địa chủ đã tới hồi xa sút. Thời phong kiến bố đẻ của ông Phụng là Đinh Văn Tước lấy bà Cao Thị Xanh là người ở một làng khác cách xóm Bơ chừng hai cây số. Nguyên bà Cao Thị Xanh cũng là con gái của một địa chủ giàu có họ Cao ở trong làng Chùa. Thân mẫu ông Đinh Viết Phụng là bà Cao Thị Xanh có sinh được bốn người con, con cả là bác gái Đinh Thị Quýt, ông Đinh Viết Phụng, cô Đinh Thị Cam, con út là chú Đinh Văn Tấu, chú Tấu mất sớm khi mới được chín tuổi. Ông Đinh Văn Tước là người mê âm nhạc, tính tình phóng khoáng như cụ Phó Phái là thân phụ ông. Ông Tước cả đời chỉ biết ăn chơi, ông mê bát âm, mê đàn ca sáo múa những là hồ xừ xang cống xế ú líu (là cách sướng âm cổ, na ná như đồ, rê, mi, pha, son...thời bây giờ), lại thi thoảng có tí cô đầu, mọi việc ông phó thác cả cho bà Cao Thị Xanh. Ông đi lang thang chơi bời cả năm ròng có khi không về nhà, hoặc nếu có về thì cũng chỉ là để lấy thêm tìên xong ông lại đi. Thế rồi nhà cửa ruộng vườn cứ đội nón ra đi, đến một ngày kia khi tiền bạc mang theo đã cạn, sức lực yếu dần ông trở về quê cũ khi tuổi đã ngoài năm mươi. Bản tính quan liêu ông không biết động chân động tay làm một việc gì, cả ngày chỉ nằm trên võng mà hò vè, mà thi thoảng ngâm ngợi, mà lẩy Kiều...Có những hôm đương độ ngày mùa, vợ con bận tối mắt tối mũi ở ngoài đồng khi về đến nhà vừa mệt lại vừa đói khát mà ông còn nạt:
- Chúng mày đi đâu mà không đun cho tao siêu nước!
Trong khi ông ở nhà cả ngày mà lúc khát nước ông cũng không tự nấu được mà pha chè. Rồi có những hôm trời mưa làm cho thóc lúa, quần áo phơi ở ngoài sân bị ướt mà ông cũng kệ chả chịu dọn vào khiến bà chỉ còn có nước kêu trời. Ông ăn uống không sa hoa nhưng khá cầu kỳ. Ông thường thích món cá trạch, hay cá bống, tôm trứng kho thật khô trong niêu đất ăn với cơm gạo dự có kèm canh cua. Lúa dự là một loại lúa đặc biệt rất thơm ngon và dẻo, lúa này thời phong kiến thường được cấy ở Nam Định, quê hương của những giống lúa ngon nổi tiếng toàn quốc. Lúa này thân rất cao, hạt to và dài, ở đầu hạt lúa mọc thêm một sợi râu nhọn và sắc. Hồi những năm 1970 bà Cao Thị Xanh còn một thửa rộng khá lớn cấy toàn lúa dự ở ngay đầu xóm Bơ, xã Nam Cường, thửa ruộng này nằm ngay cạnh những cồn đống đầy mộ cổ không biết từ những đời nào. Có lẽ thửa ruộng này là tài sản cuối cùng của họ Đinh, dòng họ có thế lực nhất trong xóm hồi bấy giờ mà ruộng đất nhiều trải rộng đến tận nhà thờ Công giáo gần bên xóm Nguyễn. Sau này bỗng một gia đình nông dân nghèo chuyển đến ruộng ấy ở, họ làm nhà trên đám ruộng và biến ruộng lúa thành vườn trồng toàn rau đay và cây rong riềng. Hỏi bà Cao Thị Xanh thì hóa ra bà đã tự nguyện nhường thửa ruộng khá lớn ấy cho gia đình nông dân nọ để vợ chồng con cái họ có chỗ ở cho đàng hoàng. Đời bà vất vả, tuy là con một gia đình địa chủ giàu có nhưng bà thường cùng ăn, cùng làm với những đám người ở, nên bà thấu hiểu và thông cảm sâu sắc với tình cảnh của họ. Bà sống chính chuyên, phúc đức suốt cả cuộc đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, bà mất năm 1984, thọ tám mươi tư tuổi. Còn cụ Tước ông hồi ấy tuy là tay ăn chơi phá phách có hạng nhưng cũng không phải là người vô tâm. Hồi những năm 50 ông có vét được một số tiền khá lớn, thuê thợ làm hẳn một căn nhà bằng gỗ lim với những chiếc cột đen bóng dựng trên những thớt đá trông rất oách cho vợ con ở. Nhà ấy có những cái xà ngang chạm hình đầu rồng với những chiếc râu mềm mại, những chiếc nanh rồng vừa cong vừa nhọn chìa ra ngoài trông rất đẹp mắt. Trên cùng là một xà dọc được bào phẳng và khắc những chữ nho, những chữ ấy có nghĩa gì chúng tôi không hiểu được. Là người thương vợ thương con, ông Tước nghẹn ngào khóc lóc vật vã giờ lâu khi con út ông là chú Đinh Văn Tấu đang hay ăn chóng lớn, khôi ngô tuấn tú lạ thường mà sớm phải lìa đời. Ông khóc rằng:
- Con ơi bố cả đời có ăn ở ác nghiệt với ai mà giời nỡ phạt bố thế này!
Nhưng luật đời là thế, thường những đưa trẻ lúc bé đẹp đẽ hơn người thường hay sớm giã từ cuộc sống trần thế buồn vui mà về thế giới bên kia, là cuộc sống vĩnh hằng...Sau này khi bác Đinh Viết Phùng cất tiếng chào đời năm Đinh Dậu 1957, ông Tước sợ lắm, ông giấu trong nhà suốt năm trời không dám đưa cháu ra ngoài, ông cấm cẳn không cho ai sờ tay vào cháu ông.
Ông Đinh Văn Tước mất năm 1960, thọ sáu mươi tuổi.
Hồi còn nhỏ ông Phụng được gia đình cho đi học chữ nho, rồi học chữ quốc ngữ ở trên huyện. Ngày tôi còn nhỏ ông hay cắt nghĩa chữ nho cho tôi nghe những là "nhân chi sơ", rồi "tính bản thiện" v.v. lần đầu tôi nghe những từ ngoại quốc lạ hoắc nên chỉ thấy buồn cười, nghe mãi thành quen nên tôi cũng võ vẽ suy luận được vài từ gốc Hán. Rồi sau này chắc do tình cảnh gia đình sa sút dần nên ông Phụng không có điều kiện để để tiếp tục theo học nữa. Ông bí mật tham gia hoạt động cách mạng, tham gia tổ chức các đội vũ trang chiến đấu chống phát xít Nhật và thực dân Pháp để giải phóng Tổ Quốc như lòng mong mỏi của tuyệt đại bộ phận nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Không biết ông Phụng tham gia du kích địa phương từ năm nào, ông không kể nhiều, chỉ biết hồi ấy ông sống và chiến đấu trong hoàn cảnh cực kỳ thiếu thốn và gian khổ, tính mạng nhiều lúc như trứng để đầu gậy. Tuy là một cán bộ cốt cán của phong trào du kích địa phương nhưng ông chỉ có độc hai bộ quần áo nhuộm củ nâu, một nắm cơm với mấy hạt muối, thanh mã tấu và quả lựu đạn do Quân giới Việt Minh tự chế tạo. Gọi là lựu đạn cho oai nhưng do hồi ấy trình độ sản xuất của Quân giới có hạn, lại sản xuất trong tình trạng bị Pháp kiểm soát, càn quyét gắt gao nên chất lượng không được tốt lắm. Lựu đạn ấy hình tròn như quả trứng dùng để tự sát khi sa vào tay giặc, bảo đảm bí mật và an toàn cho những tổ chức chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Ngày ấy, vào khoảng những năm 1946 - 1947 quân Pháp ra sức càn quét vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng gồm các tỉnh trọng điểm như Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình...là những hậu phương quan trọng cung cấp người và của cho công cuộc kháng chiến cứu quốc anh dũng của nhân dân Bắc Bộ. Hồi ấy ở Nam Định ông Phụng đang là một thanh niên trai tráng, lại có chút ít học hành nên thuộc vào hàng cốt cán. Ông được giao nhiệm vụ thu thập tin tức về những cuộc hành quân để từ đó lập lên phương án đặt mìn phá hủy xe cơ giới của quân Pháp. Vào thời điểm ấy quân du kích Việt Minh hay trôn mìn tự tạo để diệt xe cơ giới, nhưng do chưa có kinh nghiệm nên Quân giới Việt Minh chưa chế được mìn tự nổ mà phải dùng dây để giật. Hành động này là hành động quyết tử, bởi sau khi giật cho mìn nổ tất đối phương sẽ phản ứng bằng cách cho quân lục soát xung quanh. Người giật mìn sẽ nắm chắc cái chết trong tay nếu không mau rút lui thật nhanh và bí mật, chuyện trốn thoát được cũng khó như bay lên trời vậy.
Sau nhiều lần xe cơ giới, trong đó có cả xe tăng của quân Pháp bị trúng mìn trên đường càn quét nên họ trở nên thận trọng và hung hãn hơn. Thường thường ban đêm quân Pháp xử dụng bọn chỉ điểm, tề ngụy dẫn lính dõng đi càn quyét, sục sạo hai bên đường. Có lần ông Phụng phải nằm cả đêm dưới ao vì quân Pháp và lính Việt Nam theo Pháp mai phục lâu như đỉa đói. Ông đành phải nằm im để mặc cho hàng chục con đỉa đói khát bám vào người ông mà hút no căng mắu, con nào con nấy đỏ mọng như ngón tay, đeo lủng lẳng, nhầy nhuạ trên người trông đến phát khiếp mà ông không dám động đậy. Ông biết thà để cho đỉa hút hết máu còn hơn là sa vào tay quân địch để rồi phải chịu những đòn tra tấn thảm khốc, man rợ, mà gớm guốc nhất là trò treo lên xà nhà để đấm đá, rồi cắt gân, xẻo thịt, chặt đầu... Mãi sau, phải đến gần sáng địch rút ông mới dám bò về nhà bà cụ thân sinh để thay quần áo và đốt rơm rạ hơ cho ấm người. Bà nội sau này kể rằng, khi về tới nhà ông đưa tay vuốt hai ống chân làm cho hàng chục con đỉa no căng, kềnh càng tự động rơi xuống nền nhà, chúng uống no tới nỗi nôn ra máu người rơi rớt khắp nơi trên đường chúng bò. Có lần ban đêm ông ngồi phục trong bụi tre để chờ giật mìn, ông ngủ gật đập mặt vào gốc tre mới chặt nhọn hoắt toạc cả sống mũi, nên mũi ông có vết sẹo dài chạy dọc theo.
Có lần ông bị cảm thương hàn, người nóng dữ dội không tiếp tục hoạt động được, phải bí mật ở nhờ trong chùa để các sư sãi tiện bề che giấu, coi sóc ông. Vì quá nóng trong người nên đang đêm ông mò xuống ao ngâm đến tận cổ trong đêm đông giá rét căm căm. Sư sãi trong chùa tá hỏa, phần vì sợ ông chết rét, phần vì lo có kẻ chỉ điểm phát giác thì không những ông phải bị hiểm nguy mà nhà chùa cũng bị vạ lây. Thế là các sư sãi ra sức dỗ dành ông mới chịu lên. Họ dìu ông trở lại chùa nghỉ ngơi trong tình trạng nửa tỉnh, nửa mê của căn bệnh thương hàn quái ác đã làm không ít người dân Việt Nam mất mạng.
Lại có lần ông và một số đồng chí khác giả làm nông dân đi chợ sớm để luồn sâu trinh sát để đánh bốt Phú Gia cũng để lại trong ông những kỉ niệm buồn thương khó quên. Số là ngày ấy quân Pháp câu kết với một số cha cố ở nhà thờ Phú Gia dưới xóm Nguyễn để cùng nhau lập liên minh chống cộng rất hữu hiệu. Quân Pháp đã triệt phá được khá nhiều cơ sở của Việt Minh, nhiều cán bộ bị giết, hoạc bị bắt về bốt tra tán dã man. Trước tình hình rất xấu đó, các cấp lãnh đạo Việt Minh mật họp hạ quyết tâm đánh bốt Phú Gia, phá thế kìm kẹp của địch. Việc đánh bốt cũng là để cảnh cáo những Việt gian cam tâm làm tay sai cho Pháp gây thiệt hại lớn cho phía cách mạng. Ông Phụng mặc bộ quần áo nâu, đầu đội nón rách, tay vác đòn càn (một loại ống tre vót nhọn hai đầu để gánh lúa, có nơi gọi đòn sóc), từ sáng sớm tinh mơ đã lên đường giả làm người đi chợ để vào chợ.
Ông đội nón xùm xụp để che mặt rồi ung dung đi vào chợ. Khi tới cổng chợ ông chợt pha phải vật gì treo lủng lẳng phía trên, giật mình nhìn lên thì hóa ra một đồng chí của ông bị địch treo nơi cổng chợ và đã chết cứng từ bao giờ.
Quân Pháp ngày càng cáo già, và hung bạo. Thỉnh thoảng họ lại vô cớ bắn móc chê, nã đại liên vào những làng xóm của thường dân khiến cho lửa cháy ngút trời, tiếng kêu khóc ai oán vang lên khắp mọi nơi. Họ bắt người già cả, là cha mẹ của những cán bộ du kích Việt Minh đi trước để dò mìn, để Việt Minh không dám đặt mìn. Họ còn đe dọa, bắt bớ, tra tấn, giết hại những người bị tình nghi làm cho dân chúng đã khốn đốn vì đói khát, lại còn phải sống trong cảnh nơp nớp lo sợ. Ở những nơi du kích tổ chức phá đường để cản bước tiến của họ thì họ trả thù thâm độc bằng cách bắt dỡ ngay nhà của gia đình những người tham gia kháng chiến để lấp thế vào. Họ bắt nhân dân đi phu để đắp đường, để xây dựng đồn bốt khiến nhân dân vô cùng lầm than khổ cực.
Không rõ ông Đinh Viết Phụng trở thành bộ đội chủ lực khi nào, chỉ biết năm 1949 ông đã là Trung đội trưởng Vệ quốc đoàn đóng ở Nho Quan - Ninh Bình. Ông vóc người tầm thước, trẻ đẹp súng sính trong bộ quân phục màu nâu, cổ cuốn tấm khăn chiến lợi phẩm làm bằng vải dù thu được của quân Pháp trông cũng oách. Khoảng những năm 1950, sau khi đại bại ở chiến dịch biên giới, quân Pháp giật mình nhận ra sự lớn mạnh không ngừng và nguy hiểm của Việt Minh cả về số lượng lẫn chất lượng. Quân Việt Minh đã có những tổ chức quân đội lên đến cấp Đại đoàn (tức Sư đoàn ngày nay). Các tổ chức quân đội ấy là Đại đoàn 308, 320, 316, 304, 312, sau này thành lập thêm các đơn vị lựu pháo, pháo phòng không và Công binh. Nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Việt Minh xuống vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, quân Pháp đã liên tiếp mở hàng loạt những cuộc hành quân càn quét suốt từ Lạng Sơn cho đến các tỉnh phía nam của vùng đồng bằng như Ninh Bình, Thanh Hóa. Quân Pháp biết rằng Việt Minh cần rất nhiều người và lương thực, thực phẩm, vải vóc, thuốc men, nguyên vật liệu phục vụ cho công cuộc kháng chiến - kiến quốc của họ. Nếu phong tỏa được vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, bẻ gãy được mưu đồ dựa sức dân để trường kỳ kháng chiến của Việt Minh, quân Pháp sẽ làm chủ cục diện chiến tranh, sẽ đẩy được Việt Minh vào thế suy yếu, Việt Minh sẽ không thể tổ chức những chiến dịch gây thiệt hại lớn cho Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Trường Chinh và Tướng Giáp đã sớm tính tới khả năng này nên đã có những hành động đối phó hữu hiệu. Một mặt Bộ Tổng tư lệnh mở các chiến dịch lớn nhằm đập tan các tuyến phòng thủ của quân Pháp, phá ách kìm kẹp, mở rộng vùng tự do để sử dụng được nguồn nhân tài vật lực trong dân. Mặt khác Việt Minh chủ động đẩy mạnh chiến tranh du kích quy mô nhỏ trên khắp các chiến trường làm cho lực lực lượng quân Pháp bị phân tán, chống đỡ rất vất vả.
Hơn nữa Việt Minh còn mở rộng chiến tranh chính trị, tăng cường tuyên truyền lòng yêu nước, sử dụng cả Văn hóa, Văn nghệ như một vũ khí sắc bén thu phục lòng người ở khắp mọi nơi, mọi tầng lớp nhân dân là điều quân Pháp chưa bao giờ làm được. Chính những thành công trên mặt trận chính trị là yếu tố quyết định thắng lợi của Việt Minh trên chiến trường Đông Dương, vì nó cổ vũ tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh thà chết không chịu lùi của các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, cổ vũ lòng hy sinh vô bờ bến trong sự tiếp tế hậu cần của nhân dân hậu phương. Nó tạo được lý tưởng giải phóng Tổ quốc trong hầu hết mọi tầng lớp dân chúng từ Nam chí Bắc, làm động lực thúc đẩy, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của quân và dân Việt Nam lúc bấy giờ, tạo sức mạnh tổng lực, toàn diện đẩy nhanh quân Pháp đến chỗ thất bại. Ngoài ra những hoạt động đấu tranh tuyên truyền còn góp phần làm cho quân Pháp bị cô lập. Lực lượng người Việt chiến đấu cho Pháp không còn chỗ đứng trong nhân dân nên họ làm việc trong sự bị động hoàn toàn, trở nên hoang mang mơ hồ, sức chiến đấu suy giảm rõ rệt, và chán ghét chiến tranh.
Thật là những ngón đòn bậc thầy làm cho quân Pháp phải đối phó ở khắp mọi nơi, không thể có cơ hội tổ chức một cuộc phản công lớn đánh vào những cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến đặt trên vùng rừng núi Việt Bắc. Qua đó những cơ quan này có điều kiện rảnh tay thi hành một loạt những cuộc cải tổ Hành chính, củng cố vững chắc và làm mạnh thêm nhiều tổ chức kháng chiến của họ. Mặt khác, qua thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình, Việt Minh khai thông được hành lang vận tải giữa chiến khu Việt Bắc với khu ba và khu bốn. Âm mưu chia cắt đường giao thông tiếp tế, cô lập làm suy yếu chiến khu Việt Bắc của Pháp bị đập tan. Hồi ấy ông Đinh Viết Phụng từng tham gia nhiều trận đánh trong chiến dịch Biên giới nhằm phá vỡ vòng cương tỏa của Pháp, giải phóng và khai thông một vùng đất rộng lớn và các đường giao thông quan trọng nối liền Việt Nam với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông bị đạn xuyên qua đùi phải nằm Quân y viện mất vài tháng trời, sau đó trong một trận khác lại bị mảnh lựu đạn phạt ngang ống chân may sao không phạm vào xương. Ông bị thương vào đùi trong lần công đồn do súng trung liên quân Pháp trong đồn bắn ra làm xuyên thấu ngực một chiến sĩ Việt Minh, người thứ hai bị xuyên qua bụng, còn ông thì bị vào đùi. Ông bảo, lúc ấy ông bỗng thấy một cảm giác hụt hẫng, thấy mát mát ở đùi, ông đưa tay xuống sờ thì thấy một vết thương toang hoác máu tuôn sối xả. Kết thúc trận đánh ông được đưa vào Quân y viện để các Y tá dùng kéo cắt lớp vải quần rách bươm, cùng cắt luôn cả những miếng thịt lùng bùng nát bấy đã tím tái và không còn cảm giác. Cũng trong một lần công đồn khác ông bắt được một viên Sỹ quan Pháp, tay này biếu ông một khẩu súng lục rất nhỏ dùng để tự sát khi lâm vào bước đường cùng. Viên Sỹ quan Pháp được ông tha mạng, còn súng thì ông cất đi để làm kỉ vật chiến trường, sau này trên đường hành quân trên Việt Bắc ông đánh rơi đâu mất. Điều này cũng thật đáng tiếc, bởi nếu ông còn giữ được khẩu súng ấy thì nó sẽ là một kỉ vật của những bậc tiền nhân để lại cho hậu thế mai sau. Ông Phụng nói khẩu súng ấy nhỏ nhắn có báng súng làm bằng sứ trông rất lạ mắt.
Ông đã trải qua những tháng ngày chiến đấu gian khổ trong vùng địch tạm chiếm, đã có lần một mình đi công tác trong địa hình rừng núi hoang vu của tỉnh Hòa Bình đầy thú dữ. Lịch sử Quân đội còn ghi những cái chết đau thương của bộ đội do bị hổ ăn thịt trong lúc đang đứng gác tại dốc Cun ở tỉnh Hòa Bình. Ông bảo kinh nghiệm của bộ đội khi ấy là gặp hổ phải thật bình tĩnh, từ từ ngồi xuống nhặt hai viên đá ra sức gõ thật mạnh, hổ bị âm thanh bất ngờ, chói tai sẽ bỏ đi. Khi ngủ ban đêm phải nhớ cắm mấy cọc nhọn quanh mình, mắc màn vào những que ấy, hổ sợ vật nhọn, lại sợ các móng vuốt mắc vào màn nên không dám vồ người. Ông bảo có những lúc trên đường đi công tác mấy ngày không gặp một bóng người. Chúng tôi nghe chuyện thì sợ lắm, tôi lại mường tượng cảnh rừng đêm tối tăm mịt mùng với hàng muôn ức những cây cổ thụ vươn những cánh tay, những bộ rễ loằng ngoằng ma quái trên nền trời âm u nạt nộ. Ở mỗi gốc cây ấy ma quỷ tụ tập để làm nơi trú ngụ, những oan hồn chết thảm nơi đầu đường xó chợ, những bóng ma không người hương khói vật vờ, lẩn quất, những bóng lửa lân tinh lạnh lẽo chập chờn chỉ chờ có bóng người đi qua là bám lấy, mà trêu ghẹo. Dân gian còn ghi nhận những truyện kể về yêu ma như chúng thường biến thành những cậu bé đi lang thang trong rừng đêm mịt mùng mà cất tiếng khóc ngẹn ngào ai oán, lúc lại rú lên những tràng cười rợn người, sởn tóc gáy. Ghê gớm hơn nữa chúng còn biến thành những cô gái đẹp, dáng vẻ thùy mị đoan trang mà cất lên tiếng hát êm dịu, quyến rũ người ta ngủ lại nhà mình trong rừng sâu, để rồi sáng hôm sau nạn nhân phát hiện ra là mình đang nằm trên một ngôi mộ cổ được chôn không biết từ đời nào. Rồi thì những tiếng kêu rờn rợn của những giống cú, tiếng thở phì phì lạnh lẽo chứa đầy chất độc của trăn gió, tiếng gầm gừ chết chóc của hổ báo, những tiếng hú gọi hồn rợn người của các giống sài lang...Ông Phụng đã từng trải qua những tháng ngày gian khổ trong chiến tranh như thế. Vì tò mò, tôi hỏi ông là trên đời này có ma hay không, ông cười lắc đầu. Tôi biết vì giữ vững lập trường và tin theo thuyết Duy vật biện chứng, lại là cán bộ nên ông bài trừ mọi hủ tục, mọi thứ tín ngưỡng thuộc về dị đoan. Nhưng khi tôi hỏi ông về chuyện ngày xưa bị què thì ông không trả lời. Chuyện như thế này:
Số là này xưa, có lần bà cụ thân sinh ra ông Phụng là bà Tước bà thổi cơm xong, chờ mãi không thấy ông về ăn nên chủ động đi gọi. Xóm Bơ hồi ấy rất nhỏ, chỉ đi ít phút là hết xóm mà bà gọi mãi không thấy ông Phụng trả lời. Thất kinh bà huy động mọi người đèn đuốc đi tìm, ra cả sông ngòi hồ ao tìm cũng không thấy ông đâu, ai cũng tưởng ông Phụng bị ma đưa ra sông ra ao chết đuối ở đâu rồi. Chợt có người nêu ý kiến là nên đi tìm ông ở những khu vườn hoang nằm rải rác phía sau làng xem sao vì ông Phụng là tay leo trèo rất giỏi, hàng ngày vào mỗi độ hè ông hay leo cây tìm tổ chim, bắt chim non về nuôi hay bắt chim ra ràng đem nướng chia cho chị gái, em gái ông ăn. Mọi người lần đến gốc cây si ở gần đền Thành Hoàng thì thấy ông Phụng nằm còng queo dưới gốc cây từ bao giờ. Chân tay ông co quắp, ông không nói được nữa nên mặc dù đã nghe gọi tên mình hàng mấy tiếng đồng hồ mà ông không thể trả lời. Khi được mang về nhà ông nằm liệt giường hàng tháng trời, cơ thể bị đắp thuốc đen xì như da trâu, hai chân ông quặt sang hai bên bất động, các ngón tay co quắp không duỗi ra được, không cầm nắm được. Mỗi khi bà Tước bà đi chợ Cà hay mua bánh đa cho ông, vì ông rất thích bánh đa. Bà để bánh ấy trước mặt ông Phụng, ông lại dùng những bàn tay co quắp ấy đập vào tấm bánh cho vỡ ra, sau đó lấy miệng gắp những miếng bánh vụn mà ăn. Ông Phụng cứ nằm đấy mãi, bất động và không nói được, gia đình chạy chữa thuốc men đã nhiều, tốn kém không biết bao nhiêu là tiền mà bệnh tình ông không hề thuyên giảm. Tình hình bệnh tật của ông tưởng chừng tới chỗ bế tắc thì chợt có người bàn với bà Tước bà là nên cúng cho ông xem sao. Người ấy tin rằng ông phạm vào của đền, của chùa nên bị Ngài quở mà bẻ gãy chân tay ông để trừng phạt, nay gia đình sửa lễ mang ra đền cầu cúng lòng thành chắc các Ngài đánh chữ đại xá.
Nguyên đền này được xây dựng từ đời vua Lê để thờ ông Đinh Bắc. Ông Đinh Bắc là một trong những lãnh tụ nông dân nêu cao ngọn cờ khởi nghĩa phù Lê - diệt Trịnh của lãnh tụ nông dân Vũ đình Dung. Ông Đinh Bắc là một tướng trẻ, tuổi ngoài hai mươi, ngoại hình tuấn tú, võ công cao cường, chí khí hơn người. Ông chủ tâm lấy xóm Bơ làm căn cứ khởi nghĩa, từ xóm Bơ ông lập thêm trại quân nơi xóm Cầu, nay còn gọi là Trại Cầu chính là để ghi nhớ nơi đặt quân doanh của nghĩa quân. Xóm Bơ thời trước là một doi đất nổi lên giữa những đầm hồ ngập nước bốn bề, địa hình tuy cũng gần đường nhưng không thể hành quân đường bộ, muốn ra vào xóm Bơ người ta phải dùng thuyền. Nghĩa quân hoạt động rất tích cực, chẳng bao lâu thanh thế đã vang xa và gây ảnh hưởng tới những vùng lân cận như Thái Bình, Ninh Bình. Nguyên cuộc khởi nghĩa nổ ra tại xã Ngân Gìa, huyện Nam Trực, trấn Sơn Nam hạ nên còn gọi là khởi nghĩa Ngân Gìa.Trước tình hình cấp bách ấy, năm 1740 Nghị Tổ Ân Vương Trịnh Doanh tuy mới lên ngôi chúa chưa lâu đã thân chinh đốc lĩnh các quân thủy bộ đi đánh dẹp Ngân Gìa. Một đạo quân lớn chẩy thành một hàng dài theo con đường cái bằng đất xưa kia vốn rất nhỏ hẹp để tiến vào Ngân Già. Đi đầu hàng quân là tiền quân với những chiến binh mặc áo chiến ngắn, chân quấn xà cạp, nai nịt gọn gàng múa những thanh đoản đao sắc lẻm đi trước dẹp đường. Tiếp đó là một đội quân kéo theo hỏa pháo đúc bằng đồng thau vàng chóe đặt trên những giá súng có bánh xe nhỏ bằng gỗ, những chiếc đuốc dài để mồi pháo được đốt lên chập chờn ma quái trong ánh mặt trời. Ngay sau đội quân kéo pháo là một tốp quân lính khác khiêng những chiếc trống đại bọc bằng da trâu, những chiếc cồng lớn bằng đồng đỏ và những chiếc kèn miệng loe bằng gỗ. Nghị Tổ Ân Vương Trịnh Doanh lưng đeo bảo kiếm, mình mặc áo chiến bằng lụa đỏ, tay phất cờ hiệu uy nghi ngồi trên kiệu giữa trung quân. Xung quanh chúa là những chiến binh trẻ khỏe cầm khiên che dỡ tên đạn cho chúa. Những hổ tướng cầm cờ và trường kiếm, tay nắm chắc súng hỏa mai túc trực bên cạnh sẵn sàng chờ lệnh. Rồi sau đó là hậu quân múa giáo sẵn sàng đánh chặn bất kỳ một cuộc tập kích nào, đồng thời bảo vệ cho đám hỏa đầu quân lặc lè gánh những chiếc chảo đồng, những tải gạo, sọt rau, rổ thịt nặng nề mà mỗi khi hạ trại là họ nấu nướng phục vụ cho cả đạo quân. Đoàn quân ấy chiêng trống vang lừng, gươm giáo lấp lóe sáng lòa cả một góc trời. Những lá cờ đuôi nheo, những tấm phướn bay phần phật trước gió, tiếng quân reo, tiếng ngựa hí kèm tiếng trống, tiếng cồng, tiếng kèn xen lãn tiếng quát tháo vang rền cả một vùng. Dân xã Ngân Gìa kinh sợ bảo nhau cửa đóng then cài, không ai dám ra đường, họ chỉ dám hé mắt qua khe cửa mà nhìn trộm. Thật không hổ danh nhà chúa đã đánh dư trăm trận, đã thủ tiêu chế độ nhà Mạc, đã đánh dẹp hàng lọat những cuộc khởi nghĩa vùng miền Bắc và cũng đã từng có lần kéo quân vào đại bản doanh của chúa Nguyễn mãi tận Quảng Nam để tranh hùng. Quân đội nhà chúa lúc bấy giờ đã có lúc đông tới mấy vạn tinh binh. Khi tới Ngân Gìa, chúa Trịnh cho trấn chỉnh quân ngũ, một viên tiểu tướng đứng trên đài cao dùng loa tay đọc hịch đánh dẹp trước ba quân, phủ dụ vỗ yên dân chúng Ngân Già, rồi nhà chúa phát pháo lệnh mở màn cuộc tấn công.
Quân Trịnh hùng hổ đồng loạt tấn công Ngân Gìa gồm cả hai quân thủy bộ từ nhiều phía. Nghĩa quân chống trả ác liệt song không sao địch được quân đội chính quy mạnh hơn cả số lượng lẫn chất lượng, được trang bị tốt, được cung cấp hậu cần đầy đủ lại có kinh nghiệm chiến đấu trải qua hàng trăm trận của quân Trịnh. Cuộc khởi nghĩa Ngân Gìa của Vũ đình Dung và nghĩa quân Sơn Nam đương nhiên thất bại.
Sau khi dẹp được khởi nghĩa Ngân Gìa, quân Trịnh trả thù vô cùng thảm khốc mà nhiều địa danh hiện tại ở xóm Bơ còn mang dấu ấn của những cuộc tàn sát tập thể hồi ấy. Quân Trịnh bắt hết những người tham gia khởi nghĩa đem ra cánh đồng rồi chém chết hết. Quân Trịnh không cho gia quyến những người chết được mang xác người thân đi chôn...nên ruộng ấy sau này còn gọi là ruộng dòi. Họ còn đem xác những nghĩa quân bị giết đem vứt xuống ao rồi sai đổ đất lấp đi nên dân gian còn gọi là ao lấp. Nguyên ao ấy sau này thuộc về nhà ông Bùi văn Phổ ở ngay trước nhà ông Tước. Thủ lĩnh nghĩa quân là Vũ đình Dung bị bắt cũng bị nhà chúa sai đem chém. Chưa hết nhà chúa còn bắt đổi tên Ngân Gìa thành Lai Cách, nghĩa là nơi ấy sẽ không còn ai đến nữa. Sau này, khi chúa Trinh suy vong, vua Lê tưởng nhớ công ơn tôn phù của nghĩa quân nên hạ chiếu chỉ dụ dân xây đền thờ, lại phong thần cho ông Đinh Bắc làm Thành hoàng làng, đổi tên Lai Cách thành Gia Hòa (nay là xã Nam Cường). Hiện tại đền ấy vẫn còn giữ được sắc phong thần của vua Lê với đại ý trẫm mong Thành hoàng làng phù hộ cho thần dân của trẫm ở làng ấy ăn nên làm gia, an khang thịnh vượng v.v... Mãi về sau này, đến thời vua Khải Định nhà Nguyễn trị vì, bỗng một hôm có vị Khâm sai đại thần từ Huế vâng mệnh vua ra dẹp loạn cõi bắc đi ngang qua đền, trông thấy đền ấy quang cảnh tốt tươi, cây cổ thụ hùng vĩ bốn bề, lại nghe chim khách hót véo von xung quanh nên lấy làm lạ lắm mà quát quân lính dừng kiệu để xem thực hư ra sao cho rõ sự tình. Vị đại thần nọ mình mặc áo gấm thêu hình chim hạc của văn quan, tay cầm quạt quỳ, đầu đội mũ cánh chuồn, chân đi hia, khoan thai vào đền. Chỉ thấy ngôi đền mái ngói thâm nâu u tịch, bên cạnh có cây si cổ thụ hùng vĩ, tán lá rộng lớn che khuất cả một khoảng trời . Ngài lại thấy những vườn trồng cỏ tranh mượt mà xinh tốt, bướm vàng và các giống chuồn chuồn xinh đẹp dập dìu hội tụ. Đằng sau ngôi đền trông ra một dải đồng bằng mênh mông đẹp như tranh vẽ, xung quanh vượng khí toát lên tốt tươi với những con sông, những đầm nước phản chiếu mây xanh bao la thanh bình. Gần cổng đền, mé bên trong là một ngôi Phủ tuy nhỏ nhưng toát lên một làn linh khí lạ lùng, xung quanh trúc xe điếu mọc rậm rạp thần bí. Không dám khinh xuất, vị Khâm sai nọ vội vàng quát bảo tả hữu sửa lễ gồm hương hoa nải quả và mấy thứ rượu chè dâng lên rồi tự mình làm lễ khấn vái cầu xin Thành hoàng hết lòng phù trợ để hoàn thành sứ mạng vua sai. Sau khi làm lễ xong, vị đại thần lại lên đường mà tiếp tục công việc dẹp loạn, và đã thành công xuất sắc. Sau khi trở lại Kinh thành Huế, vị đại thần không dám trễ nải lập sức thảo sớ tâu vua, không quên nhắc đến công lao của Thành hoàng làng Bơ. Vua Khải Định xem sớ tấu thì khen thầm vị Khâm sai là người trí dũng, ăn ở có trước có sau. Nhà vua nhân khí trời mát mẻ dễ chịu, lại vừa xem hát xong, lấy làm vui vẻ, mặt rồng hớn hở bèn chuẩn tấu, hạ chiếu chỉ phong thần cho Thành hoàng xóm Bơ. Như vậy Thành hoàng xóm Bơ được hai lần phong thần, một sắc phong của vua Lê, một sắc phong của vua Khải Định nhà Nguyễn. Khỏi cần phải nói người ta cũng có thể mường tượng được cái không khí của dân làng trong ngày đón nhận sắc phong vua ban tưng bừng đến thế nào. Một vị quan Khâm sai và một đoàn tùy tùng, binh lính xuất hành từ Kinh đô Huế nhắm hướng Bắc mà đi. Vị Khâm sai nọ cưỡi ngựa vua ban với yên cương gắn lục lạc bằng bạc, được thêu thùa bằng chỉ ngũ sắc và kim tuyến rất đẹp. Bốn năm gia nhân cầm những cái lọng sang trọng che cho quan mỗi khi trời mưa hay nắng. Lúc mỏi ngài chuyển xuống đi kiệu do những người lính khỏe mạnh khiêng bằng chiếc đòn gỗ cong, sơn vẽ cầu kỳ. Viên khâm sai và đoàn tùy tùng ngày đi đêm nghỉ, đoàn đi tới địa phận nào thì những viên quan trông coi địa phận ấy phải khăn áo chỉnh tề ra lậy chào và cung đốn đồ ăn thức uống cùng nơi ăn chốn ở cho đoàn. Đoàn đi mất gần hai tháng mới đến được tỉnh Nam Định ngoài sứ Bắc. Đích thân quan Tổng đốc tỉnh Nam Định ra vái chào. Quan Tổng đốc mở tiệc đón tiếp long trọng, lại mời đoàn tạm nghỉ rồi thảo công văn cho quan huyện Nam Trực. Quan huyện Nam Trực bèn sức trát cho đòi chánh tổng, lý trưởng trông coi bản hạt lên trực tiếp cùng các quan tỉnh bàn bạc kế hoạch tổ chức lễ đón rước sắc phong vua ban. Đường vào xóm Bơ từ mấy hôm trước đã được sửa sang phong quang đẹp đẽ. Nhà nhà dọn dẹp quét tước ngõ xóm sạch sẽ, những bức mành được cuốn lên. Gà chó trâu bò được đem nhốt lại, trẻ con bị cấm không được hò la hay leo trèo ngịch ngợm làm kinh động tới buổi lễ. Các vị chức sắc, vị tiên chỉ làng và các bô lão ăn mặc quần chùng áo dài, đầu đội khăn xếp đứng khoanh tay cung kính hai bên đường sẵn sàng nghênh tiếp. Quan khâm sai mình mặc đồ đại lễ rực rỡ dẫn một đoàn tùy tùng đông đúc với cờ xí phấp phới, hai bên quân lính gươm giáo sáng lòa. Ở giữa đoàn người là một viên tiểu quan do Bộ Lễ sai đi . Viên tiểu quan này dáng dấp khỏe mạnh, ăn mặc tinh tươm sạch sẽ. Hôm trước anh ta đã được cho tắm nước hương, đầu đội một chiếc hòm sơn son thếp vàng trong đựng sắc phong nhà vua. Đoàn rước sắc phong từ từ tiến vào đền và làm các nghi lễ đón tiếp trong tiếng trống, tiếng thanh la rộn ràng. Một viên quan dùng loa tay dóng lên thông báo cho toàn thể dân làng được biết, rồi người lý trưởng làng cùng vị tiên chỉ, các bô lão quỳ xuống, hai tay giơ cao sắc phong nhà vua ngang trán mà lạy tạ. Sau khi lạy tạ xong các vị chức sắc làm lễ an vị đạo sắc phong vua ban để thờ trong đền.
Tôi nhớ hồi còn sống ma cụ Tước bà thường hay kể chuyện về sự linh thiêng lạ lùng của ngôi đền như là nếu ai đi ngang qua đền mà không bỏ mũ hay nón ra tất sẽ bị phạt. Người ấy đang khỏe mạng bỗng dưng lăn ra ốm, gia đình phải sửa lễ mang ra đền cúng bái mới khỏi. Hay là trâu bò đi qua mà vô tình lè lưỡi bứt một chiếc lá, một cành nhỏ cũng bị trướng bụng mà chết. Dân gian còn truyền rằng có một bà nọ, vào những năm của thập kỉ 80, nhân ngày lễ cúng cô hồn có vào quét dọn. Bà này dâng hương trong phủ xong rồi cứ tự tay tát vào mặt mình mà kêu lên hai tiếng "ô uế". Người ta đồn rằng nguyên bà này không chịu tắm táp sạch sẽ, lại mặc đồ dơ bẩn mà dâng hương nên đã bị ngài quở để làm gương cho những người khác. Chuyện dân gian đồn đại chẳng biết thực hư thế nào. Ở dưới gốc cây si gần đền có cái lỗ rất sâu ăn từ thân cây xuống tận dưới đất không biết có từ bao giờ. Bà Tước bà còn khẳng định rằng trong hốc cây ấy trú ngụ một con rắn có mào, gọi là ông Mào. Vào những đêm trăng ông thường nằm trong bộng cây mà thò cổ ra ngoài, chiếc mào mọc trên đầu, lại thòng xuống cổ như những dải yếm trông vô cùng kỳ dị linh thiêng. Hoặc những đêm mưa thâm tối trời ông rời bỏ hang ổ mà bò ra đường, ông nằm phơi sương trên những gò đống, toàn thân ông trắng lốp có điểm những vẩy hồng và vàng trông vô cùng lạ mắt. Không rõ thường nhật ông xơi gì, chỉ biết trong xóm không bao giờ mất trộm gà vịt. Có lẽ tới lúc đói quá ông mới bò ra ngoài tìm xơi vài con chuột. Cũng có người nói ông xơi đồ thờ cúng trong đền ngoài phủ. Nhưng những đồ thờ cúng hôm trước, hôm sau thấy vẫn còn nguyên không hề suy chuyển, chứng tỏ ông không đụng vào. Người ta lại đồn ông là rắn thần, nên chỉ ngửi hương hoa để giữ mình thanh sạch chứ ông không ăn đồ phàm tục như những giống vật khác. Mỗi người nói mỗi kiểu, chả biết thế nào.
Sau này, khi phong trào hợp tác xã phát triển rầm rộ ở miền Bắc đã làm cho bộ mặt nông thôn Việt Nam thay đổi trông thấy. Ngày ngày tiếng loa truyền thanh vang lên phát đi những chủ trương, chính sách của Đảng, những bài hát làm sống động không khí nông thôn vốn tịch mịch thanh bình. Đêm đêm những đoàn thanh niên, thiếu niên, nhi đồng hát múa, tập nghi thức rộn ràng với tiếng trống, tiếng phách tới tận khuya. Rồi những đám cưới nông thôn diễn ra náo nhiệt với tiếng nhạc, tiếng cười nói ầm ĩ canh thâu. Những bài hát hay được phát ngày ấy là những vở chèo, những vở cải lương về đề tài chiến đấu của nhân dân Miền Nam và sau này còn xuất hiện những bài như "Cô gái tưới đậu". Những bài hát thiếu nhi cũng hay được hát như "Em là búp măng non, em lớn lên trong mùa cách mạng" hay là bài hát "Mời anh đến thăm quê tôi" của nhạc sĩ Nguyễn đức Toàn:
...Anh đên thăm quê tôi,
đồng xanh bát ngát chân trời.
Ngày được mùa bao cô gái,
ngồi dệt lụa dưới ánh trăng thanh...
đồng xanh bát ngát chân trời.
Ngày được mùa bao cô gái,
ngồi dệt lụa dưới ánh trăng thanh...
Rồi
tiếng máy bay Mỹ gầm rú oanh tạc thành phố Nam Định trong thời kỳ chiến
tranh phá hoại, tiếng máy cày sình sịch ngoài đồng, tiếng máy tuốt lúa
chạy động cơ đi ê den ầm ĩ suốt đêm thời hợp tác xã đã phá tan không
khí linh thiêng, tịch mịch của đền Thành hoàng. Vào một đêm sáng trăng,
ông Mào bỏ đền mà đi, ông bò qua những đồng nội trồng lúa và hoa mầu,
bơi qua sông Đào sang đất Vụ Bản. Rồi ông vào tận Ninh Bình, nơi có dãy
núi đá vôi hùng vĩ với những hang động kỳ bí để tìm nơi trú ngụ. Từ đó
trở đi không ai còn trông thấy ông đâu nữa. Tuy nhiên đó cũng chỉ là những
truyền thuyết nửa thực nửa hư kích thích tính tò mò của con người. Tôi
thì cho rằng ông Mào có thể là một con kỳ nhông với những cái vây, những
tấm da phủ quanh cổ vì một lý do nào đó lưu lạc từ vùng rừng núi Hà
Nam, Ninh Bình tới đây, trú ngụ tại bộng cây này. Về sau có lẽ do tuổi
tác già nua mà con kỳ nhông ấy đã chết chứ không phải bỏ đi như nhiều
người phỏng đoán. Tại bộng cây ấy, vào những năm 1982 một bác nông dân
tên là Đinh văn Hạnh đem đặt một cái cạm cần, để chờ bắt rắn, nhưng rắn
đâu chẳng thấy, chỉ thấy một con cầy khá lớn bị cạm kẹp. Người nông dân
ấy đem con thú về nhà mổ thịt, thui lên nấu nướng cho cả gia đình chén
một bữa ngon lành.
Ở trong đền không biết từ đời nào có bầy đồ thờ tự được chế rất khéo. Đồ ấy gồm hòm kính trạm trổ tinh vi đựng đôi hài mũi cong, đồ đựng sắc phong, rồi thì gươm, giáo, súng, lại kèm theo một bộ kiệu có bánh xe bằng gỗ dùng để rước thần vào những ngày lễ tết hằng năm. Rồi thì nào là hoành phi, câu đối, bàn ghế sơn son thếp vàng rất đẹp, song độc đáo nhất có lẽ là chiếc lọ độc bình. Đền ấy trước còn có một bức tường cổ rất đẹp án ngữ ngay con đường dẫn vào đền. Bức tường đưoạc xây như vậy để mọi người khi đi lễ xong lúc trở ra không thể quay lưng trực tiếp về phía đền, tránh hành vi phạm thượng. Sau bức tường ấy, ngay trong sân gạch lát toàn loại gạch Bát Tràng có trồng một cây bồ kết tuyệt đẹp. Cây bồ kết ấy không cao lắm, nhưng những tán lá lưa thưa mọc quanh những cành nhánh già nua, khẳng khiu, thỉnh thoảng điểm xuyết một vài quả khô mầu đen trông rất đẹp mắt. Bức tường cũng cổ như ngôi đền , nó được phủ một lớp bụi thời gian mầu xám, cùng với khoảnh sân và cây bồ kết khiến ta liên tưởng đến một dinh thất của những nhà quyền quý thời phong kiến. Sau này ngôi đền đã được những nhà nghiên cứu Văn hóa tỉnh Nam Định về tận nơi xem xét. Các văn tự được đem ra dịch thuật rồi đối chiếu so sánh với Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cùng các văn tịch cổ khác, và ngôi đền được công nhận là Di tích lịch sử. Được tin vui lớn lao ấy, những người dân xung quanh đã góp công góp của để tôn tạo ngôi đền. Họ đã xây lại một cái cổng với những nét kiết trúc cổ trông khá đẹp mắt. Họ lại đắp đôi hạc uy nghi đứng trên con rùa, những mong con cháu làng ấy được vượng phát về sau. Ở chính giữa đôi hạc họ lại gia công đắp một lư hương rất lớn có con nghê há miệng nhả khói trông rất nghệ thuật. Bà Phụng - vốn là người nổi tiếng là tiết kiệm tới mức cả vùng ai cũng biết tiếng - nay cũng quyết định dốc hầu bao xuất một món tiền khá lớn xây một bức nhà ngang ngay cạnh gốc cây si để làm nơi chứa đồ cúng tế. Có nhiều những gia đình giàu có còn dâng những câu đối sơn son thếp vàng, những bức trướng thêu kim tuyến rất đẹp và đồ binh khí cũng sơn son thếp vàng và được chế tạo khá cầu kỳ, trạm trổ tinh vi.
Lại nói đến chuyện bệnh tật của ông Đinh viết Phụng. Có bệnh thì vái tứ phương, bà Tước bà không dám trễ nải, ngay lập tức trong phiên chợ sau cắp thúng đi sửa lễ. Thôi thì trăm sự nhờ thày xin các Ngài đánh chữ đại xá, cháu nó chót dại. Không biết do các Ngài thương tình tha cho ông, hay do một sự ngẫu nhiên tình cờ nào mà sau khi cúng bái xong ông Phụng khỏi thật. Ông ngồi dậy được, ông đi đi lại lại như bình thường, ăn nói lưu loát như không có chuyện trước đó ông đã từng bị câm. Khi bà Tước bà gặng hỏi về vụ tai nạn hi hữu vừa qua ông trả lời rằng:
- Lúc chiều em ra cây si ngoài đền để bắt chim, tự nhiên bị ngã phịch xuống gốc cây, không cử động được nữa, có nghe tiếng mọi người gọi, em kêu cứu nhiều lắm nhưng không ra tiếng.
Ông hay gọi mẹ xưng em như chị gái ông là bác Đinh thị Quýt và em gái ông là cô Đinh thị Cam. Chị gái ông Phụng là bà Quýt có lần về mách bà Tước bà:
- Mẹ ơi con chó nhà mình nó đẻ năm em, mà toàn em mù.
Số là giống chó khi mới sinh ra chưa mở mắt ngay nên thất kinh bác tưởng rằng mấy con chó con nhà bác bị mù.
Tất cả các anh em ông Đinh viết Phụng, bác gái Đinh thị Quýt, em gái Đinh thị Cam, em trai Đinh văn Tấu đều đã đã thành người thiên cổ.
Vào những năm đầu thập kỉ 80 có một câu chuyện tình cờ có liên quan đến ngôi đền như thế này:
Một hôm có người nông dân trong làng đi làm đồng về rẽ vào trong đền, chắc có lẽ anh ta muốn thăm mấy thửa ruộng nằm không xa tại nội sau bên hông ngôi đền. Lúc bấy giờ mặt trời đã lên khá cao, anh ta chợt nhìn thấy một người nằm bất động ngay trên bờ hè của đền, bên cạnh tấm cửa gỗ lim đã được mở ra. Anh ta bị cấm khẩu hoàn toàn không kêu la, không nói năng được, toàn thân bất động mềm như bún, nhũn như chi chi. Người nông dân này bèn hô hoán, gọi dân quân đến bắt trói kẻ lạ mặt. Lúc đó có nhiều người dân vì kích động không kiềm chế được đã xông vào đấm đá người lạ mặt rất tàn nhẫn. Sau đó kẻ lạ mặt bị giải lên Công an huyện, nhiều ngày sau đó anh ta mới tỉnh táo trở lại và khai rằng anh ta là người tham tiền, muốn giầu nhanh nên rắp tâm tìm cách ăn trộm cổ vật trong các đền chùa. Anh ta chờ cho dân xóm Bơ ngủ thật say, đang lúc nửa đêm mới mò vào đền định ăn cắp chiếc lọ độc bình. Vừa khi tay trộm này cậy được cánh cửa định lách mình chui vào thì chợt thấy như có bàn tay vô hình nào đó quật anh ta ngã xuống. Anh ta nằm đó đã rất lâu, suốt từ lúc nửa đêm cho tới non trưa hôm sau mới bị phát hiện, anh ta nói đã cất tiếng kêu cứu song không thành tiếng mà chỉ phát ra tiếng rên ư ử như người bị bóng đè cho đến khi bị bắt...
Trường hợp tai nạn của ông Phụng rất có sự trùng hợp như trường hợp tai nạn của tên trộm. Nó gây nên cho người ta một câu hỏi thần bí khó giải thích bằng phép duy vật sao cho ổn...
Bản thân tôi cũng đã có lần mơ những giấc mơ kì lạ về ngôi đền cùng với những sự trùng hợp lạ lùng, bí hiểm. Đó là vào khoảng những năm 1999 - 2000 tôi đã định cư được hơn mười năm tại CHLB Đức bên tận xứ châu Âu xa xôi lạnh giá. Một hôm trong giấc mơ tôi thấy mình được ông Phụng dẫn đi thăm đền (ông Phụng mất năm 1997, tính tới thời điểm tôi nằm mơ đã được 2 - 3 năm). Đó là một đêm không trăng sao, hay có trăng nhưng do bóng mây đen che phủ nên ánh trăng chỉ còn mờ mờ, ảo ảo một mầu xám nhạt song cũng đủ để người ta nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Ông Phụng trông trẻ, phong độ như hồi ông còn công tác tronghquân đội chứ không có vẻ gì là một ông già ốm yếu bệnh tật về sau. Ông mặc chiếc áo vải phin màu ghi xám hồi còn sống ông hay mặc, mà nếu không có giấc mơ nói trên tôi đã quên khuấy là ông từng có chiếc áo này. Ông không cười, nét mặt trông đăm đăm, ông dẫn tôi tới mấy cái cột cao ngoài đền, tới bên cái cối đá nằm phía bên trái cổng đền, nơi có tập tiền giấy in mầu xanh chàm và bảo rằng: "bố chỉ còn có bằng này". Rồi ông đi đâu mất, về hướng nội trước là nơi yên nghỉ của ông còn tôi thì giật mình tỉnh dậy. Ngay ngày hôm sau tôi điện cho bác Đinh hồ Pha để trao đổi về vấn đề này, ai cũng lấy làm lạ. Bà Phụng bà vốn trọng cúng bái liền cho sửa lễ, đốt vàng mã cho ông Phụng ngay sau đó, bà không quên cằn nhằn rằng ông Phụng sao còn phải sang tận Đức để mà xin xỏ. Nếu chuyện chỉ là giấc mơ mà thôi thì không có gì để nói, song nó lại có sự trùng lặp lạ lùng mà tôi không sao giải thích được. Số là năm 2002 tôi và cháu đầu là Marcel mới được hai tuổi có về viếng ông Đinh viết Phụng tại xóm Bơ, chúng tôi có rẽ vào đền để thắp hương tưởng nhớ người xưa tôi có thấy mấy cái cột cao được xây lại giống như tôi đã từng thấy trong giấc mơ. Tôi nhìn ngôi đền lần cuối cùng cách thời điểm tôi trở về năm 2002 với cháu Marcel gần hai mươi năm, ngày ấy chiếc cổng cũ kỹ sơ sài chứ chưa được xây lại như bây giờ, vậy mà trong mơ tôi đã nhìn thấy nó đúng như ngoài đời. Rồi tôi đánh mắt về phía bên trái của cổng đền, dưới chân cột có chiếc cối đá đã nằm đấy từ bao giờ. Trong chiếc cối đá là tập giấy tiền âm phủ in những hình tròn mầu xanh chàm bị đốt mới cháy hết một nửa còn nằm đó. Tôi cũng xin lưu ý rằng ngôi đền từ khi mới xây tới giờ, trải đã hàng trăm năm không hề có chiếc cối đá ấy, vậy mà lúc ấy tôi thấy nó nằm đó với tập tiền giấy đã cháy dở đúng như trong giấc mơ. Điều này là cả một câu hỏi lớn mà cho mãi tới bây giờ tôi vẫn không sao giải thích được...
Ở cách xóm Bơ không xa là Trại Cầu, tương truyền xưa kia là trại quân của nghĩa quân ông Đinh Bắc. Đây là một xóm nhỏ yên bình nằm giữa những đồng lúa, những thửa ruộng với sông ngòi bao quanh đẹp như tranh vẽ. Xóm này trước đây chỉ gồm dăm ba chục nóc nhà nằm giữa những khu vườn, những ao chuôm đầy bèo, những đống rơm, đống rạ với những cây cau, cây mít bình dị. Ngay đầu làng Trại Cầu có cây si cổ thụ già kỳ vĩ với bộ rễ trứ danh quấn quýt, xoắn xuýt dày đặc. Ở dưới gốc si, không biết từ bao giờ có con chó đá ngồi chầu ở đấy mà nhìn ngắm khách qua đường. Nhân dân đồn rằng chó đá rất thiêng, phàm những đứa trẻ nghịch ngợm nào mà trèo lên đầu Ngài ngồi để làm ngựa cưỡi chơi thế nào đêm về cũng bị ốm. Cha mẹ của những đứa trẻ dại dột này tất nhiên lại phải sắm sửa hương hoa mang về khấn khứa Ngài đánh chữ đại xá mới xong. Nguyên đằng sau xóm này cũng có một ngôi đền trông từa tựa ngôi đền ở xóm Bơ nhưng quy mô hơi nhỏ hơn. Cách ngôi đền này không xa, trên một con đường đất của những người nông dân đi làm đồng không biết từ bao giờ có một ngôi miếu cũ kỹ, nhỏ bé nằm dưới một cây đa cổ thụ mọc trơ trọi giữa nơi cánh đồng cô quạnh. Ngôi miếu này toạ lạc trên một gò đất thấp nhỏ quay lưng ra ngay sau ruộng lúa. Dưới chân gò đất đầy những lỗ chuột, lỗ cua, lỗ rắn cao thấp nham nhở, trúc mọc lác đác xung quanh lẫn với cỏ dại thưa thớt. Bình thường ngôi miếu này không gây được sự chú ý đặc biệt của người dân chung quanh nếu không có một sự lạ xảy ra. Số là hồi đó, cũng vào những năm đầu của thập kỷ 80, một vài bà nông dân trong khi vác cuốc đi làm đồng tá hỏa khi thấy dưới chân ngôi miếu có kẻ nào dùng thuổng đào một vài cái hố rất sâu, xung quanh hố lăn lóc những chiếc bình cổ không biết được chế từ thời nào. Cũng phải nói rằng, tình hình Việt Nam hồi ấy đang cực kỳ khó khăn vì đất nước vừa trải qua cuộc chiến tranh mấy mươi năm chống Pháp, rồi Mỹ. Đất nước chưa được mấy ngày yên vui lại phải làm nghĩa vụ giúp đỡ nước láng giềng Cam Pu Chia, rồi chiến tranh biên giới phía bắc nổ ra ác liệt trên quy mô lớn. Những bài Quân ca còn đọng mãi trong tôi trong những tháng năm đất nước lâm nguy:
Ở trong đền không biết từ đời nào có bầy đồ thờ tự được chế rất khéo. Đồ ấy gồm hòm kính trạm trổ tinh vi đựng đôi hài mũi cong, đồ đựng sắc phong, rồi thì gươm, giáo, súng, lại kèm theo một bộ kiệu có bánh xe bằng gỗ dùng để rước thần vào những ngày lễ tết hằng năm. Rồi thì nào là hoành phi, câu đối, bàn ghế sơn son thếp vàng rất đẹp, song độc đáo nhất có lẽ là chiếc lọ độc bình. Đền ấy trước còn có một bức tường cổ rất đẹp án ngữ ngay con đường dẫn vào đền. Bức tường đưoạc xây như vậy để mọi người khi đi lễ xong lúc trở ra không thể quay lưng trực tiếp về phía đền, tránh hành vi phạm thượng. Sau bức tường ấy, ngay trong sân gạch lát toàn loại gạch Bát Tràng có trồng một cây bồ kết tuyệt đẹp. Cây bồ kết ấy không cao lắm, nhưng những tán lá lưa thưa mọc quanh những cành nhánh già nua, khẳng khiu, thỉnh thoảng điểm xuyết một vài quả khô mầu đen trông rất đẹp mắt. Bức tường cũng cổ như ngôi đền , nó được phủ một lớp bụi thời gian mầu xám, cùng với khoảnh sân và cây bồ kết khiến ta liên tưởng đến một dinh thất của những nhà quyền quý thời phong kiến. Sau này ngôi đền đã được những nhà nghiên cứu Văn hóa tỉnh Nam Định về tận nơi xem xét. Các văn tự được đem ra dịch thuật rồi đối chiếu so sánh với Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cùng các văn tịch cổ khác, và ngôi đền được công nhận là Di tích lịch sử. Được tin vui lớn lao ấy, những người dân xung quanh đã góp công góp của để tôn tạo ngôi đền. Họ đã xây lại một cái cổng với những nét kiết trúc cổ trông khá đẹp mắt. Họ lại đắp đôi hạc uy nghi đứng trên con rùa, những mong con cháu làng ấy được vượng phát về sau. Ở chính giữa đôi hạc họ lại gia công đắp một lư hương rất lớn có con nghê há miệng nhả khói trông rất nghệ thuật. Bà Phụng - vốn là người nổi tiếng là tiết kiệm tới mức cả vùng ai cũng biết tiếng - nay cũng quyết định dốc hầu bao xuất một món tiền khá lớn xây một bức nhà ngang ngay cạnh gốc cây si để làm nơi chứa đồ cúng tế. Có nhiều những gia đình giàu có còn dâng những câu đối sơn son thếp vàng, những bức trướng thêu kim tuyến rất đẹp và đồ binh khí cũng sơn son thếp vàng và được chế tạo khá cầu kỳ, trạm trổ tinh vi.
Lại nói đến chuyện bệnh tật của ông Đinh viết Phụng. Có bệnh thì vái tứ phương, bà Tước bà không dám trễ nải, ngay lập tức trong phiên chợ sau cắp thúng đi sửa lễ. Thôi thì trăm sự nhờ thày xin các Ngài đánh chữ đại xá, cháu nó chót dại. Không biết do các Ngài thương tình tha cho ông, hay do một sự ngẫu nhiên tình cờ nào mà sau khi cúng bái xong ông Phụng khỏi thật. Ông ngồi dậy được, ông đi đi lại lại như bình thường, ăn nói lưu loát như không có chuyện trước đó ông đã từng bị câm. Khi bà Tước bà gặng hỏi về vụ tai nạn hi hữu vừa qua ông trả lời rằng:
- Lúc chiều em ra cây si ngoài đền để bắt chim, tự nhiên bị ngã phịch xuống gốc cây, không cử động được nữa, có nghe tiếng mọi người gọi, em kêu cứu nhiều lắm nhưng không ra tiếng.
Ông hay gọi mẹ xưng em như chị gái ông là bác Đinh thị Quýt và em gái ông là cô Đinh thị Cam. Chị gái ông Phụng là bà Quýt có lần về mách bà Tước bà:
- Mẹ ơi con chó nhà mình nó đẻ năm em, mà toàn em mù.
Số là giống chó khi mới sinh ra chưa mở mắt ngay nên thất kinh bác tưởng rằng mấy con chó con nhà bác bị mù.
Tất cả các anh em ông Đinh viết Phụng, bác gái Đinh thị Quýt, em gái Đinh thị Cam, em trai Đinh văn Tấu đều đã đã thành người thiên cổ.
Vào những năm đầu thập kỉ 80 có một câu chuyện tình cờ có liên quan đến ngôi đền như thế này:
Một hôm có người nông dân trong làng đi làm đồng về rẽ vào trong đền, chắc có lẽ anh ta muốn thăm mấy thửa ruộng nằm không xa tại nội sau bên hông ngôi đền. Lúc bấy giờ mặt trời đã lên khá cao, anh ta chợt nhìn thấy một người nằm bất động ngay trên bờ hè của đền, bên cạnh tấm cửa gỗ lim đã được mở ra. Anh ta bị cấm khẩu hoàn toàn không kêu la, không nói năng được, toàn thân bất động mềm như bún, nhũn như chi chi. Người nông dân này bèn hô hoán, gọi dân quân đến bắt trói kẻ lạ mặt. Lúc đó có nhiều người dân vì kích động không kiềm chế được đã xông vào đấm đá người lạ mặt rất tàn nhẫn. Sau đó kẻ lạ mặt bị giải lên Công an huyện, nhiều ngày sau đó anh ta mới tỉnh táo trở lại và khai rằng anh ta là người tham tiền, muốn giầu nhanh nên rắp tâm tìm cách ăn trộm cổ vật trong các đền chùa. Anh ta chờ cho dân xóm Bơ ngủ thật say, đang lúc nửa đêm mới mò vào đền định ăn cắp chiếc lọ độc bình. Vừa khi tay trộm này cậy được cánh cửa định lách mình chui vào thì chợt thấy như có bàn tay vô hình nào đó quật anh ta ngã xuống. Anh ta nằm đó đã rất lâu, suốt từ lúc nửa đêm cho tới non trưa hôm sau mới bị phát hiện, anh ta nói đã cất tiếng kêu cứu song không thành tiếng mà chỉ phát ra tiếng rên ư ử như người bị bóng đè cho đến khi bị bắt...
Trường hợp tai nạn của ông Phụng rất có sự trùng hợp như trường hợp tai nạn của tên trộm. Nó gây nên cho người ta một câu hỏi thần bí khó giải thích bằng phép duy vật sao cho ổn...
Bản thân tôi cũng đã có lần mơ những giấc mơ kì lạ về ngôi đền cùng với những sự trùng hợp lạ lùng, bí hiểm. Đó là vào khoảng những năm 1999 - 2000 tôi đã định cư được hơn mười năm tại CHLB Đức bên tận xứ châu Âu xa xôi lạnh giá. Một hôm trong giấc mơ tôi thấy mình được ông Phụng dẫn đi thăm đền (ông Phụng mất năm 1997, tính tới thời điểm tôi nằm mơ đã được 2 - 3 năm). Đó là một đêm không trăng sao, hay có trăng nhưng do bóng mây đen che phủ nên ánh trăng chỉ còn mờ mờ, ảo ảo một mầu xám nhạt song cũng đủ để người ta nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Ông Phụng trông trẻ, phong độ như hồi ông còn công tác tronghquân đội chứ không có vẻ gì là một ông già ốm yếu bệnh tật về sau. Ông mặc chiếc áo vải phin màu ghi xám hồi còn sống ông hay mặc, mà nếu không có giấc mơ nói trên tôi đã quên khuấy là ông từng có chiếc áo này. Ông không cười, nét mặt trông đăm đăm, ông dẫn tôi tới mấy cái cột cao ngoài đền, tới bên cái cối đá nằm phía bên trái cổng đền, nơi có tập tiền giấy in mầu xanh chàm và bảo rằng: "bố chỉ còn có bằng này". Rồi ông đi đâu mất, về hướng nội trước là nơi yên nghỉ của ông còn tôi thì giật mình tỉnh dậy. Ngay ngày hôm sau tôi điện cho bác Đinh hồ Pha để trao đổi về vấn đề này, ai cũng lấy làm lạ. Bà Phụng bà vốn trọng cúng bái liền cho sửa lễ, đốt vàng mã cho ông Phụng ngay sau đó, bà không quên cằn nhằn rằng ông Phụng sao còn phải sang tận Đức để mà xin xỏ. Nếu chuyện chỉ là giấc mơ mà thôi thì không có gì để nói, song nó lại có sự trùng lặp lạ lùng mà tôi không sao giải thích được. Số là năm 2002 tôi và cháu đầu là Marcel mới được hai tuổi có về viếng ông Đinh viết Phụng tại xóm Bơ, chúng tôi có rẽ vào đền để thắp hương tưởng nhớ người xưa tôi có thấy mấy cái cột cao được xây lại giống như tôi đã từng thấy trong giấc mơ. Tôi nhìn ngôi đền lần cuối cùng cách thời điểm tôi trở về năm 2002 với cháu Marcel gần hai mươi năm, ngày ấy chiếc cổng cũ kỹ sơ sài chứ chưa được xây lại như bây giờ, vậy mà trong mơ tôi đã nhìn thấy nó đúng như ngoài đời. Rồi tôi đánh mắt về phía bên trái của cổng đền, dưới chân cột có chiếc cối đá đã nằm đấy từ bao giờ. Trong chiếc cối đá là tập giấy tiền âm phủ in những hình tròn mầu xanh chàm bị đốt mới cháy hết một nửa còn nằm đó. Tôi cũng xin lưu ý rằng ngôi đền từ khi mới xây tới giờ, trải đã hàng trăm năm không hề có chiếc cối đá ấy, vậy mà lúc ấy tôi thấy nó nằm đó với tập tiền giấy đã cháy dở đúng như trong giấc mơ. Điều này là cả một câu hỏi lớn mà cho mãi tới bây giờ tôi vẫn không sao giải thích được...
Ở cách xóm Bơ không xa là Trại Cầu, tương truyền xưa kia là trại quân của nghĩa quân ông Đinh Bắc. Đây là một xóm nhỏ yên bình nằm giữa những đồng lúa, những thửa ruộng với sông ngòi bao quanh đẹp như tranh vẽ. Xóm này trước đây chỉ gồm dăm ba chục nóc nhà nằm giữa những khu vườn, những ao chuôm đầy bèo, những đống rơm, đống rạ với những cây cau, cây mít bình dị. Ngay đầu làng Trại Cầu có cây si cổ thụ già kỳ vĩ với bộ rễ trứ danh quấn quýt, xoắn xuýt dày đặc. Ở dưới gốc si, không biết từ bao giờ có con chó đá ngồi chầu ở đấy mà nhìn ngắm khách qua đường. Nhân dân đồn rằng chó đá rất thiêng, phàm những đứa trẻ nghịch ngợm nào mà trèo lên đầu Ngài ngồi để làm ngựa cưỡi chơi thế nào đêm về cũng bị ốm. Cha mẹ của những đứa trẻ dại dột này tất nhiên lại phải sắm sửa hương hoa mang về khấn khứa Ngài đánh chữ đại xá mới xong. Nguyên đằng sau xóm này cũng có một ngôi đền trông từa tựa ngôi đền ở xóm Bơ nhưng quy mô hơi nhỏ hơn. Cách ngôi đền này không xa, trên một con đường đất của những người nông dân đi làm đồng không biết từ bao giờ có một ngôi miếu cũ kỹ, nhỏ bé nằm dưới một cây đa cổ thụ mọc trơ trọi giữa nơi cánh đồng cô quạnh. Ngôi miếu này toạ lạc trên một gò đất thấp nhỏ quay lưng ra ngay sau ruộng lúa. Dưới chân gò đất đầy những lỗ chuột, lỗ cua, lỗ rắn cao thấp nham nhở, trúc mọc lác đác xung quanh lẫn với cỏ dại thưa thớt. Bình thường ngôi miếu này không gây được sự chú ý đặc biệt của người dân chung quanh nếu không có một sự lạ xảy ra. Số là hồi đó, cũng vào những năm đầu của thập kỷ 80, một vài bà nông dân trong khi vác cuốc đi làm đồng tá hỏa khi thấy dưới chân ngôi miếu có kẻ nào dùng thuổng đào một vài cái hố rất sâu, xung quanh hố lăn lóc những chiếc bình cổ không biết được chế từ thời nào. Cũng phải nói rằng, tình hình Việt Nam hồi ấy đang cực kỳ khó khăn vì đất nước vừa trải qua cuộc chiến tranh mấy mươi năm chống Pháp, rồi Mỹ. Đất nước chưa được mấy ngày yên vui lại phải làm nghĩa vụ giúp đỡ nước láng giềng Cam Pu Chia, rồi chiến tranh biên giới phía bắc nổ ra ác liệt trên quy mô lớn. Những bài Quân ca còn đọng mãi trong tôi trong những tháng năm đất nước lâm nguy:
....Những đoàn quân lại trùng trùng ra đi
ta đã quen rồi gian khổ trường kỳ
ròng rã mấy ngàn năm đánh giặc...
ta đã quen rồi gian khổ trường kỳ
ròng rã mấy ngàn năm đánh giặc...
Nước láng giềng Trung Quốc cắt viện trợ, rút hết chuyên gia về nước khiến cho kinh tế Việt Nam lúc ấy đứng bên bờ vực thẳm của nạn đói khủng khiếp rất có thể xảy ra. Song nhờ những nước anh em Đông Âu hết lòng giúp đỡ cộng vơí sự nỗ lực cố gắng và bản lĩnh cao cường nên nhân dân Việt Nam đã vượt qua tất cả. Toàn cảnh xã hội ngày ấy chỉ xoay quanh vấn đề lương thực, thực phẩm. Những cán bộ nhà nước ăn mặc tuềnh toàng, sau xe đạp thể nào cũng có mớ rau muống, hay sang lắm là vài ba lạng thịt lợn sỏ dây lạt tre treo tòn ten trước ghi đông xe đạp. Hồi ấy các ngành khác không được chú trọng lắm trong đó có ngành khảo cổ. Và cũng chính ngành khảo cổ không được chú trọng nên sự kiện đào bới trên bị lãng quên. Câu chuyện đào bới không được trên quan tâm xem xét mà chỉ làm đề tài cho những bác nông dân có chút kinh nghiệm cuộc sống đàm đạo bên bàn trà nước, thuốc lào để rồi sau đó đi vào dĩ vãng. Tôi thì đánh giá sự kiện này theo một vài nhận định chủ quan như sau:
- Vào những năm thuộc Minh, những người Hoa sống quanh nơi đây, hoặc không xa nơi đây dựa vào sự bảo hộ của quân đội đại lục đã vơ vét được ít nhiều của cải để làm giàu cho mình. Rồi sau đó trước sự thất bại không thể cứu vãn nổi của quân Minh nên họ đã tìm địa điểm trôn giấu của cải, họ giả cách lập miếu thờ, trồng cây lên để đánh dấu, vẽ lại bản đồ trong gia phả chờ cơ hội thuận lợi thì bí mật đào lên đem về. Cũng không loại trừ đây là kho báu vật của quan tướng nhà Minh trong lúc bị nghĩa quân Lam Sơn vây khốn không sao tẩu tán được nên mới phải đào hố chôn dấu, có thể còn có sự giết người để bịt đầu mối. Lịch sử Việt Nam từng ghi nhận không ít trường hợp những người Hán giấu của như vậy. Gần đây báo chí còn đăng tin nhiều địa kiểm giấu của cải ở những hang núi thuộc tỉnh Hòa Bình của quân Cờ Vàng có xuất sứ từ Trung Quốc.
Nhưng vì sao tôi lại tập trung sự suy đoán vào quân Minh? Tôi đã cố gắng làm sao cho thật khách quan, thật công bằng trong sự suy đoán này và cũng cố xua đuổi nó đi song vô ích. Những ý nghĩ này vẫn bám trong đầu tôi như rêu, làm tôi nghi nghi hoặc hoặc, tôi nghĩ:
Thứ nhất là lịch sử Việt Nam ghi nhận rằng chỉ có người Hán mới hay chôn giấu của cải kiểu này.
Thứ hai là không thể là quân Nguyên, bởi vì niên đại của ngôi miếu và cây đa không cổ đến thế. Mặt khác quân Nguyên chỉ tiến hành những cuộc hành binh đánh nhanh, thắng nhanh ồ ạt chứ chưa ăn sâu bén rễ, chưa kịp đặt chế độ đô hộ để mà nô dịch, mà vơ vét của cải. Hơn nữa, mấy cuộc chiến tranh do Hưng Đạo Vương lãnh đạo đã cùng toàn dân Việt Nam thực hiện triệt để kế hoạch vườn không nhà trống, đến con gà con lợn, lạng thóc, cân ngô cũng khó lòng kiếm được chứ nói gì tới vàng bạc châu báu với số lượng lớn.
Thứ ba là lịch sử cận đại cũng ghi nhận hai cuộc chiến tranh trên quy mô lớn của nhân dân Việt Nam chống lại quân Minh ( 1418 - 1427) và quân Thanh (1788 - 1789). Ở đây tôi loại bỏ yếu tố về sự có mặt của quân Thanh trong chuyện này, bởi vì với một năm quân Thanh vừa mới chân ướt, chân ráo đến Việt Nam chưa thể lập được chế độ cai trị để có đủ thời gian mà vơ vét. Mặt khác sử sách cũng không ghi chép gì về sự có mặt của quân Thanh ở vùng Nam Định. Do vậy tôi loại trừ ảnh hưởng của quân Thanh ra khỏi câu chuyện này. Tôi đặc biệt chú ý tới quân Minh bởi vì sử sách ghi chép rất tỉ mỉ về sự cai trị hà khắc, tham lam của quân Minh gần mười năm trời ở Việt Nam. Nhóm Ngô Gia Văn Phái cũng nhắc nhiều tới sự nhũng nhiễu của những bộ phận người Hoa ở trấn Sơn Nam lúc bấy giờ. Những bộ phận người này suốt mười năm trời làm ăn buôn bán dưới sự bảo hộ của quân Minh chắc chắn họ sẽ để được những gia tài khổng lồ. Ngoài ra niên đại của ngôi miếu và cây đa cũng phù hợp với thời gian trong sự có mặt của quân Minh tại Việt Nam.
Lại nói về xóm Bơ và Trại Cầu ngày ấy nổi tiếng là nhiều rắn độc. Hồi ấy có không ít người dân bị rắn cắn chết, hay bị tàn phế suốt đời. Những giống rắn độc thường là cạp nong (khá lớn khoanh vàng, khoanh đen khá độc), cạp nia (rất nhỏ, với khoanh đen, khoanh trắng, kịch độc) hay là hổ mang bành cũng rất độc, không kể nhiều giống khác nữa. Thường ngày, thỉnh toảng lại xuất hiện một vài tay thợ bắt rắn với những chiếc thuổng trên vai và chiếc bao tải để đựng rắn. Họ từ đâu tới không ai biết, chỉ biết họ hay lang thang ra những bờ sông, những gò đống mà ngó nghiêng, mà xem xét rồi đào đào, bới bới. Rất có thể trong số những tay thợ này là con cháu của chủ nhân kho báu giả làm người bắt rắn đi lang thang qua những xóm thôn để xác định chính xác địa điểm và khi đã xác định chính xác rồi, vào một đêm không trăng sao họ đã bí mật tới đây đào bới mang đi.
Nói về chuyện rắn ở vùng Nam Định hồi những năm 70 - 80 vẫn còn nhiều lắm. Trên cây thì có giống rắn ráo tinh nhanh, thân màu xanh vô hại và không độc. Các tay thợ bắt rắn thường hay trèo lên cây (vì rắn ráo hay sống trên cây) mà rung, dọa cho rắn ráo bổ xuống đất rồi lao vào mà vồ bằng tay không. Nguyên cái giống rắn ráo ở trên cây thì tinh ranh như quỷ, nhưng khi xuống đất thì anh chàng trở nên vụng về vì không quen địa hình. Chính dựa vào điểm yếu này mà các tay thợ bắt rắt ranh ma đã ra sức lùa anh rắn ráo xuống đất mà bắt dễ như trở bàn tay vậy.
Trong những bờ sông, bờ mương thì hay có rắn cạp nong, hay còn gọi là mai gầm. Cạp nong là giống rắn tương đối độc, tuy không nguy hiểm chết người song những ai từng bị anh này bợp cũng phải ốm đau khốn đốn. Anh cạp nong có bộ mã ngoài rất đỏm. Mình anh khá dài, cỡ mét rưỡi tây, được trang điểm bằng những khoanh vàng xen lẫn khoang đen trông khá ngộ nghĩnh. Anh cạp nong không bao giờ rời khỏi ổ vào ban ngày, vì mắt anh kém không chịu được ánh nắng nên anh ta nằm lì trong hang, tối khuya mới bò khỏi hang để kiếm mồi. Các tay thợ bắt rắn thường tìm hang cạp nia ở các bờ sông, gò đống. Họ chỉ cần nhìn nền hang nhẵn thín thì biết ngay là hang rắn, bởi rắn bò bằng bụng nên làm cho nền hang rất nhẵn. Thợ chỉ cần dùng thuổng đào ít phút là bắt được rắn. Khi anh cạp nia bị lôi khỏi tổ thì trở nên lù đù, hiền lành rất thích mắt.
Ở ngoài bờ đê sông Đào, dưới những lũy tre xanh tươi là nơi trú ngụ của giống rắn hổ trâu. Hổ trâu là giống rắn không độc tuy anh ta có cái tên khá là dữ dằn. Toàn thân anh mầu xám, dài cỡ 2 mét, rất hiền và giỏi bơi lội. Đặc biệt thịt anh này ngon nhất trong họ hàng nhà rắn nên là đối tượng săn bắt đặc biệt của những bợm nhậu. Người dân ngoài đê sông Đào kể rằng thỉnh thoảng nhìn thấy cặp rắn hổ trâu dài tới vài ba mét, đang đêm bơi lội lập lờ dưới làn nước sông để kiếm ăn.
Nam Định còn là quê hương của giống hổ mang bành danh tiếng thiên hạ. Riêng anh mang bành nổi tiếng dữ dội và nọc rất độc. Ai bị anh này mổ cho một phát thì nếu không mất mạng cũng ốm đau vật vã hàng tháng báo cháo. Riêng anh mang bành có đặc tính lạ là thích xơi thịt đồng loại. Nếu vô tình bắt gặp đồng loại trên đường kiếm ăn, thay vì có những động tác va chạm bày tỏ sự vui mừng thì anh ta phùng mang trợn mắt nuốt luôn đồng loại. Mà có điều lạ là anh ta có thể nuốt được những cá thể to như bản thân anh ta vậy mà không chết vì ngẹn thở kể cũng lạ.
Ở những làng thôn Nam Định còn nhiều loài rắn nước có bộ mã khá đẹp và không độc. Những giống rắn nước thường chọn nơi bờ sông, bờ ao làm nơi trú ngụ. Thức ăn chủ yếu của chúng là cá nhỏ, ếch nhái và chuột đồng. Song có một loại rắn đặc biệt hi hữu là giống hổ mang thiếc. Tôi đã từng chứng kiến đám trẻ con khi lật một tảng bê tông cũ ở ngoài vườn đã phát hiện được một con rắn như vậy. Rắn này trông rất đẹp, dài chỉ khoảng 40 phân, béo tròn mũm mĩm đẹp tuyệt, đuôi rắn rất ngắn và tù. Anh rắn này có cặp mắt tròn trong veo hiền lành, anh ta cử động chậm dãi dễ thương dưới ánh mặt trời. Anh ta hiền lành tới mức ngay cả cất cổ, trợn mắt, lè lưỡi đe dọa chúng tôi anh ta cũng không biết. Riêng mầu sắc anh ta thì đẹp không thể tả. Toàn thân anh phủ một lớp vẩy nhỏ, mịn và bóng nhẫy, nhiều mầu sắc phản quang lấp lánh xanh biếc như mầu bọ cánh cam dưới ánh mặt trời. Có điều lạ là không hiểu bằng cách nào anh ta lại nằm dưới tấm bê tông được. Rõ ràng chúng tôi xem xét kĩ lưỡng thì thấy tấm bê tông ấy nằm lún xuống đất, mọc đầy cỏ rác và từ lâu không có người hay vật đụng chạm tới. Một điều lạ nữa là quanh tấm bê tông ấy không hề có lỗ ra vào của rắn. Điều đó chứng tỏ rắn này nằm đây đã từ lâu lắm không hề chui ra chui vào. Có người cho rằng có ai đó vô tình để tấm bê tông lên chốc trứng rắn, hoặc rắn con mới nở, sau đó rắn nở ra và bị cầm tù luôn dưới tấm bê tông đã nhiều năm tháng cho tới khi bị đám trẻ con phát hiện. Luận cứ này có vẻ có lí, song một câu hỏi được đặt ra là vậy thì rắn ăn gì trong bằng ấy năm tháng để béo đẹp mũm mĩm dễ thương đến vậy? Chúng tôi không tìm ra câu trả lời. Một vài người lớn có kinh nghiệm đe rằng rắn này kịch độc, chỉ cần ăn thịt chúng đã đủ tiêu vong chứ chưa cần chờ chúng mổ. Nghe vậy lũ trẻ lấy que đánh chết rắn rồi đem vứt ra ao cho cá rỉa. Tôi không đánh rắn mà lấy làm tiếc, giá chi mình có điều kiện nuôi dưỡng rồi đem tặng cho vườn bách thú Hà Nội để mọi người chiêm ngưỡng thì hay biết mấy. Sau này tôi đem chuyện rắn hổ mang thiếc để đi hỏi khắp thiên hạ, đặc biệt là những bợm nhậu xem họ đã từng mục kính rắn ấy bao giờ chưa nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu.
Hồi còn học ở trường Trung cấp Mật mã của Bộ Tổng Tham mưu tôi đã có lần chính mắt phát hiện ra rắn. Số là thế này
Hồi ấy tôi cùng toàn thể anh em Đại đội 8 đi gánh gạch vừa nung xong từ lò gạch ngoài bờ sông Đáy để cất vào kho. Gánh xong gạch chúng tôi chạy ùa ra chỗ bến tắm, nơi có những bậc tam cấp dẫn xuống sông để rửa mặt mũi chân tay. Hồi ấy đang độ cuối thu, nắng hanh dìu dịu chiếu sáng lấp lánh những rặng cây bên kia bờ sông, làm cho cả một rặng cây ánh lên như dát bằng bạc. Nước sông mùa thu hiền hòa trong vắt và tương đối nông vì thượng nguồn từ lâu không mưa. Bên bờ sông có những hàm ếch do nước lũ mùa hạ qua bao nhiêu trận xói mòn tạo thành. Cỏ cây và day leo chằng chịt xà xuống phủ kín hàm ếch, làm cho hàm ếch trở nên nhập nhoạng tranh tối tranh sáng, khiến người ta không thể nhìn rõ những gì bên trong. Tôi tò mò thầm nghĩ "ta thử khảo sát hàm ếch xem sao, biết đâu có thú vật sinh sống hay dị vật cổ do sóng nước tấp vào". Nói là làm, song vẫn sợ nên tôi bèn vớ lấy cái que bằng cành xoan khô, từ phía ngoài nâng đám cỏ rắc dây leo rồi ngó xuống xem....Còn tiếp
Quay trở về thời điểm lịch sử những năm 1950 trở ra, những lớn mạnh không ngừng của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn tổng tiến công. Nhưng một yêu cầu cấp bách, bức thiết của Quân đội là ở chỗ cần phải đào tạo gấp rút một số cán bộ có trình độ quân sự cao, có trình độ tổ chức, tác chiến hiện đại để đáp ứng nhu cầu trên khắp các chiến trường. Một khó khăn lớn là Việt Nam hiện chưa có nhiều nhà trường để có thể đào tạo cán bộ trên quy mô lớn, mặt khác sự thiếu cán bộ giảng viên trình độ cao cũng là một trở ngại không dễ gì khắc phục. Trước tình hình đó Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã có những sự thương lượng với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, họ sốt sắng nhận giúp Quân đội Nhân dân Việt Nam đào tạo gấp một số cán bộ. Ông Đinh Viết Phụng là một trong những cán bộ được cử đi học Trường lục quân Pháo binh tại Trung Quốc. Lớp học này gồm toàn những chiến sĩ trẻ và có chút ít học vấn, được tuyển chọn khá kỹ lưỡng. Điều này cũng không lạ vì Quân đội Nhân dân Việt Nam hồi ấy chủ yếu là do tầng lớp nông dân tổ thành, họ hầu hết là mù chữ và ra đi kháng chiến từ những làng quê nghèo nàn và lạc hậu. Những lực lượng quân đội này không thể tham gia những lớp học mà họ được tổ chức thành các đơn vị thường trực chiến đấu, rồi tự học hay là tham gia vào các lớp bình dân học vụ để nhằm xóa nạn mù chữ.
Lớp học được tổ chức thành đoàn, vừa đi vừa tham gia chiến đấu, có không ít người hoặc hi sinh, hoặc thương vong bệnh tật phải nằm lại trên đất Việt Nam. Khi sang tới đất Trung Quốc, đoàn đã khẩn trương bắt tay ngay vào công tác học tập. Họ học hành hăng say, với phương châm "lấy cần cù bù khả năng", ban ngày họ lăn lộn trên thao trường hay miệt mài trong lớp học lí thuyết, buổi tối họ truy bài, ôn bài thảo luận sôi nổi cho đến lúc có lệnh đi ngủ mới dừng tay. Ông Phụng kể rằng ông không bao giờ quên được tình cảm nồng nàn nhân hậu của nhân dân Trung Quốc dành cho bộ đội Việt Nam hồi bấy giờ. Nhà bếp cho anh em bộ đội Việt Nam ăn những món ngon mà ở Việt Nam họ chưa một lần được nghe chứ đừng nói nếm qua. Thỉnh thoảng các bà, các mẹ lại tự làm đồ ăn, họ mang những giỏ đầy lê, táo là những hoa quả sang trọng hồi bấy giờ để tặng anh em Việt Nam. Rồi các bà các mẹ lại trổ tài khâu những đôi giày vải thêu thùa tinh xảo cho anh em đi. Thỉnh thoảng bộ đội Bát lộ quân Trung Quốc tổ chức những buổi giao lưu, những đêm trình diễn văn nghệ hoặc chiếu phim phục vụ bộ đội Việt Nam khiến cho không khí luôn tưng bừng, náo nức và đầy sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau. Nhân dân và quân đội Trung Quốc rất thấu hiểu tình cảnh của Nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ là khao khát một nền hòa bình, một nền độc lập tự chủ để những người lính được trở về với quê hương, với gia đình mình mà tiếp tục công việc đồng áng. Họ cũng ghi nhận những hy sinh, những lỗ lực phi thường của bộ đội Việt Nam trong chiến dịch "Thập vạn đại sơn" năm 1949 giúp cách mạng Trung Quốc quyét sạch tàn dư Quốc dân Đảng, thiết lập chính quyền trên một vùng rộng lớn ở biên giới Đông Nam nước này. Đồng thời họ hiểu hành động giúp đỡ Việt Nam của phía Trung Quốc cũng là để bảo vệ chính mình. Sự lớn mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam sẽ là một lực lượng quân sự quét sạch tàn quân Quốc dân đảng Trung Quốc âm mưu lấy vùng đất ở ngã ba biên giới phía Tây Bắc Việt Nam làm nơi ẩn náu. Rồi từ đó lực lượng này sẽ tìm cách móc nối, thông đồng với các thế lực nước ngoài để xin viện trợ, tổ chức lực lượng chờ dịp phản công.
Sau thời gian ba năm hăng say miệt mài học tập, rèn luyện những học viên Việt Nam đã trở thành những sĩ quan chỉ huy pháo binh trẻ, khoẻ, có trình độ cao. Đầu năm 1953 họ chuẩn bị lên đường về lại Tổ quốc để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Quân đội nước CHND Trung Hoa trao tặng bộ đội Việt Nam một Trung đoàn pháo 105 ly. Số pháo này một phần do Liên Xô viện trợ cho Trung Quốc, một phần do quân đội Trung Quốc thu được của Tưởng giới Thạch, đa phần còn rất tốt với khoảng hơn ba nghìn viên đạn. Đầu năm 1953 đoàn Việt Nam hành quân qua Vân Nam, lên đường về nước tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Hồi ấy các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc tiếp giáp với Vân Nam còn nằm trong tình trạng lạc hậu nguyên thủy. Đại đa số là rừng rậm ngút ngàn, có những khu rừng hàng trăm năm không có dấu chân người, đường xá toàn là những lối mòn, đôi khi phải lên thác xuống ghềnh vô cùng khó khăn gian khổ. Có nhiều lúc đoàn phải làm bè bằng nứa, tháo tung từng bộ phận của những khẩu trọng pháo nặng hàng vài tấn ra để chuyên chở bằng đường sông suối về nơi tập kết tại Tuyên Quang, Việt Bắc. Lối hành quân độc đáo này vừa giải quyết được khó khăn khi vận chuyển bằng đường rừng, lại vừa bảo đảm bí mật tránh đươc sự nhòm ngó, oanh kích của máy bay Pháp. Đêm ngày 22 - 12 - 1953 Đại đoàn Công pháo Quân đội Nhân dân Việt Nam nhận được lệnh kéo pháo sang Tây Bắc tham gia đánh trận Điện Biên Phủ. Khi đến vùng Tây Bắc, bộ đội đối mặt ngay với cảnh sinh hoạt thiếu thốn, tạm bợ trong chiến tranh. Khẩu phần ăn giảm hẳn, thức ăn chủ yếu là mắm kem, thỉnh thoảng lắm mới có miếng thịt. Ông Phụng nói đã có lần ông được ăn thịt voi, ông bảo thịt voi ăn nhạt, duy chỉ có cái vòi đem ninh kỹ ăn rất ngon. Đặc biệt bộ đội và dân công thiếu rau xanh trầm trọng. Các loại rau rừng đã bị thu hoạch hết để nuôi hơn mười nghìn bộ đội chủ lực với hơn ba mươi nghìn dân công hỏa tuyến làm công tác vận tải. Trước tình hình thiếu rau xanh, bộ đội đã khắc phục bằng cách đi hái những trái ớt rừng mọc khá nhiều ở Tây Bắc rồi dùng những hòn sỏi to làm chày giã nát đem nấu canh. Hằng ngày bộ đội Pháo binh phải ra sức kéo những khẩu pháo nặng hàng tấn lên những con dốc quanh co trong rừng rậm, rồi lại phải lo đào công sự chiến đấu, đào hầm giấu pháo. Sự lao động nặng nhọc cộng với chế độ ăn uống kham khổ đã để lại hậu quả là rất nhiều bộ đội sau này bị bệnh dạ dày. Ông Phụng bị loét dạ dầy nặng và đã phải mổ đi mổ lại tới 3 lần, hai lần tạm khâu chỗ bị thủng, lần thứ ba cắt bỏ tới 2 phần 3. Khi biết Pháo binh Việt Nam đã chiếm lĩnh song trận địa, viên Trung tá chỉ huy Pháo binh Pháp Pi Rốt đã huênh hoang tuyên bố rằng:
- Sẽ cho Pháo binh Việt Nam câm họng trong ít phút!
Ông ta là một sĩ quan tài năng của quân đội Pháp, rất được cấp trên sủng ái nên đã mờ mắt mà không thấy được những cách bố trí trận địa pháo vừa an toàn, vừa độc đáo của Pháo binh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bộ đội Việt Nam đào rất nhiều hầm khoét sâu vào vách núi để làm nơi giấu pháo khiến cho Pháo binh và Không quân Pháp không có cách gì tiêu diệt được. Duy nhất có một lần xe tăng M 24 của Pháp mò vào được gần trận địa bố trí sơn pháo 75 ly của bộ đội Việt Nam song bị bắn hỏng ngay ít phút sau đó. Lúc đó ông Phụng là Đại đội trưởng chỉ huy pháo binh. Ông có trong tay những khẩu trọng pháo 105 ly, là pháo lớn nhất, và cũng là niềm hãnh diện của Quân đội Nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Nhưng điều đó không quan trọng, cái làm nên sức mạnh là tinh thần quyết tử, nguyện đem máu xương để giành chiến thắng, để giải phóng Tổ quốc của các chiến sỹ Điện Biên lúc bấy giờ.
Đại đội pháo của ông Phụng nằm trong một căn hầm khoét sâu vào vách núi. Hầm khá rộng đủ để chứa được cỗ pháo to lớn cồng kềnh cùng đạn dược, lại vừa có đủ chỗ ăn ngủ cho ông và các pháo thủ. Hằng ngày ông nằm trong màn chờ lệnh của trên, thỉnh thoảng mới cho bắn vài quả. Ông Phụng nói ngày ấy Pháo binh Việt Nam thiếu đạn nghiêm trọng nên số lần bắn bị hạn chế, chỉ được bắn với số lượng do cấp trên quy định, không được tự ý tác xạ theo ý mình. Những ngày đầu đánh Điện Biên Phủ Pháo binh Việt Nam có lần bắn không tới mục tiêu, xém chút bắn vào bộ binh quân mình. Các chỉ huy và pháo thủ ngơ ngác không hiểu vì sao mình đã thực hiện đúng các yếu lĩnh mà nhiều đơn vị pháo phạm phải lỗi nghiêm trọng dường ấy. Sau tìm hiểu nguyên nhân thì hoá ra số đạn pháo do Trung Quốc sản xuất không đạt những tiêu chuẩn kỹ thuật. Cũng phải nói rằng hồi ấy nước bạn mới giải phóng được năm năm, Quân giới bạn chưa đạt được trình độ chế tạo vũ khí cao như bây giờ, chế tạo đạn pháo không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật nên đã gây ra một số sự cố đáng tiếc kể trên.
Sau sự cố trên pháo binh quân đội nhân dân Việt Nam đã họp bàn rút kinh nghiệm và xin cấp trên cho tác xạ hoàn toàn bằng cơ số đạn do Mỹ sản xuất. Kết quả thật mĩ mãn, bộ đội pháo binh bắn ngày càng chuẩn, trút bão lửa sấm sét xuống đội quân viễn chinh Pháp đồn trú trong các cứ điểm, làm cho quân Pháp không có cơ hội thò đầu ra khỏi chiến hào. Nhờ đó mà bộ binh quân đội Việt Minh có đủ thời gian và cơ hội xung phong nhanh chóng tiếp cận trận địa, tiêu diệt và bức hàng hết căn cứ này đến căn cứ khác, khiến cho tập đoàn cứ điểm ngày càng bị thu hẹp.
Tình hình quân Pháp những ngày cáo chung thậtt bi đát tới cùng cực. Kẻ sống ở lẫn với người chết, cùng với thương, bệnh binh chui rúc trong những đoạn hầm hào chật hẹp. Quân Pháp buộc phải đi vệ sinh tại chính nơi ăn, nơi ngủ của mình. Họ rơi vào tình trạng thiếu đói nhiều ngày vì phần lớn thực phẩm do máy bay thả dù tiếp tế rơi vào tay Việt Minh. Đám tàn quân còn lại lúc bấy giờ gầy yếu tả tơi, mặt mũi nhem nhuốc đầy mình cáu ghét, râu tóc bơ phờ trông không khác gì một đám thổ phỉ ô hợp. Thần khí hùng hổ của họ tan biến đâu mất, đó đây vang lên tiếng kêu la oán thán vì đói khát, tuyệt vọng. Mùi hôi hám bốc lên từ đám thương binh thiếu thuốc, những tiếng rú của những tên lính bị thương làm cho trại quân không khác gì địa ngục.
Đại tá Đờ Cátxtơri được lính thông tin quân Pháp nối mạch nói chuyện với vợ ở Hà Nội, ông ta khẳng định quyết tử chứ nhất định không chịu đầu hàng vì vinh dự nước Pháp. Cũng nhờ sự lên gân lần cuối này mà ông ta được phong Thiếu tướng.
Nhưng sự lên gân của Tướng Đờ Cát chẳng léo dài được bao lâu. Chiều nhày mồng 7 tháng 5 năm 1954, trước sức tấn công mãnh liệt của Quân đội nhân dân Việt Nam ông ta buộc phải kéo cờ trắng ra hàng vô điều kiện.
Sự đầu hàng của quân đội viễn chinh Pháp đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ hà khắc của người Pháp tại Việt Nam nói riêng và toàn cõi Đông Dương nói chung.
Chiến thắng này là do sự lãnh đạo tài ba của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng bí thư Trường Chinh, Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng toàn quân và dân Việt Nam. Điều đặc biệt dẫn tới chiến thắng này là sự quyết tâm cao của của những Đại đoàn trực tiếp tham chiến, trong đó có công sức rất lớn có tính quyết định của Đại đoàn công pháo - tiền thân của Binh chủng Pháo binh quân đội nhân dân Việt Nam Sau này.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, các đơn vị quân đội được lệnh sau ít ngày nghỉ ngơi tiến về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Nhạc sĩ Văn Cao đã viết một tác phẩm hào hùng nhằm ghi lại không khí náo nức ngày đó:
"...năm cửa ô đón mừng, đoàn quân tiến về
như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào, trải rộng sương sớm long lanh...
...chúng ta ươm lại hoa, sắc hương say ngày xa ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu. Những bông hoa ngày mai đón tương lai vào tay ..."
Sau ngày tiếp quản Thủ đô, ông Phụng còn công tác ở Binh chủng Pháo binh một thời gian, rồi chuyển sang làm việc ở Bộ tư lệnh Công binh, góp phần tham gia xây dựng căn cứ Đá Chông như đã nói trên.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần, thi hài được gìn giữ nơi đây. Ông Phụng đã cùng Thiếu tướng Trần Kinh Chi - Cục trưởng An ninh quân đội - trực tiếp mở cuộc hành quân bí mật trong đêm chở thi hài Hồ Chủ tịch lên giấu trong căn cứ.
Từ nay trở đi, ngoài việc bảo vệ tuyệt đối an toàn cho các Uỷ viên Bộ chính trị lên làm việc, ông Phụng còn vừa phải cùng các chuyên gia Liên Xô lo giữ gìn, bảo quản thi hài của Hồ chủ tịch luôn ở trong trạng thái tốt nhất.
Ông Phụng kể đã từng đón các Tướng lĩnh Trung ương Cục miền Nam ra báo cáo tình hình như ông Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam), Trung tướng Trần Độ (sau là Trưởng ban Văn nghệ Trung ương), ông Phạm Hùng (sau là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng)...
Thường thường ngoài giờ làm việc ông Phung hay chơi bài tổ tôm với cán bộ, sĩ quan cấp dưới, nhiều khi ông đi câu ở những đầm nước xung quang căn cứ. Thỉnh thoảng ông lại cùng những sĩ quan trẻ người dân tộc Tày đi thăm bẫy thú, thi thoảng vớ được hươu còn phần nhiều là những giống thú nhỏ như chồn cáo, cày hương ...
Năm 1975 trong một lần ông Phụng về thăm quê Nam Định có mang theo một cái chổi làm bằng đuôi cầy hương rất đẹp. Lai lịch của cái đuôi con cầy là do một lần ra thăm bẫy treo, ông phát hiện một vùng cây cỏ bị phá nát, hoá ra một con cầy hương rất lớn bị dính bẫy, một chân bị treo lên cao nên cầy hương ta vùng vẫy cắn nát một vùng cây cỏ bằng cái nong vậy. Riêng cái anh cầy hương có tuyến xạ tiết chất thơm đặc biệt, nên thịt nó mà đem nấu dựa mận theo công thức Cờ Tây thì thơm ngon vô hạn, ai mà đã một lần thưởng thức chắc chẳng bao giờ quên. Miếng thịt được thui bằng rơm nếp nương lên mầu vàng sẫm, đem nấu chung với giềng, mẻ, mắm tôm sẽ cho ra miếng thịt cầy có lớp da mầu nâu sẫm bóng nhẫy, một lớp mỡ trắng rất béo, và kèm theo là miếng thịt nạc rất mềm và vô cùng ngon ngọt. Thầy trò ông Phụng xào xáo con cầy đánh chén một bữa hết sạch, còn cái đuôi vằn vện như đuôi con hổ thì cắm vào một thanh gỗ để làm cái phất trần, có dây treo cẩn thận, trông khá ngọan mục.
Trong thời kỳ chiến tranh căn cứ Đá Chông được bảo vệ vô cùng nghiêm ngặt, bất luận nững ai không được chuẩn y mà vô tình hay cố ý xâm nhập đều sẽ bị bắn hạ mà không cần tra xét.
Nơi đây được bảo vệ bởi một đại đội bộ binh đặc biệt tinh nhuệ ở vòng ngoài, ba chiếc xe tăng T34 của Liên Xô nằm trong công sự vững chắc sẵn sàng đánh trả bất cứ một cuộc tấn công nào của biệt kích đối phương ( Một chiếc xe tăng nằm trong công sự có thể án ngữ được cả một Tiểu đoàn, một Tiểu đoàn có khoảng 300 đến 500 quân). Phía sau đồi là hai Khẩu đội súng Phòng không 14 ly 5 nhằm bắn máy bay và quân nhảy dù.
Ông Phụng, Thiếu tướng Lương Soạn và tôi đã từng câu cá quả ở đây
Trước đây đầm này hoang vu, chứ chưa được cải tạo và kè đá như bây giờ
Mùa
Thu năm 1976, hồi ấy tôi còn ở với ông trong Phòng Tham mưu trong Bộ Tư
lệnh, một buổi chiều đang thơ thẩn chơi một mình thì ông Phụng bảo "mai
lên K". Tôi chẳng hiểu "K" là gì, chỉ biết rằng được đi xe ô tô mà đi
xem phong cảnh thì thú không còn gì bằng. Hồi ấy xe ô tô còn đang rất
hiếm hoi, mọi người, nhất là đám trẻ con thấy tôi ngồi trên xe thì nhìn
tôi bằng ánh mắt nể nang e dè. Hôm sau khoảng 8 giờ sáng chúng tôi lên
đường. Hồi ấy tôi có một khẩu súng tự làm bằng gỗ, có lắp dây chun, có
dùi lỗ nòng để bắn đạn làm bằng những chiếc đũa cắt ngắn vót nhọn, tôi
cầm đi theo luôn. Chả là hồi ấy tôi hay xem những bộ phim của các nước
khối xã hội chủ nghĩa về đề tài chống phát xít với những cảnh các điệp
viên bắn súng ngắn trông khá hấp dẫn nên tôi bắt trước cho hay chứ không
có mục đích gì. Ông Phụng mang theo bao thuốc lá, chiếc bật lửa, chiếc
khăn mùi xoa, chiếc xà cột da chiến lợi phẩm thu được của Pháp, và khẩu
súng ngắn K54 bỏ trong bao da mầu nâu còn mới với chiếc khuy đồng hình
tròn. Hồi ấy vào những năm chiến tranh ông Phụng chính thức nắm chức chỉ
huy điều hành các công tác bảo vệ và di chuyển của mật khu Đá Chông từ
năm 1969 đến năm 1975 nên trên đường đi công tác lúc nào ông cũng có
những người bảo vệ cầm súng ngắn đi theo. Sau những năm 1978 tôi không
thấy ông sử dụng súng nữa, tôi biết ông không ưa gì súng đạn, vốn là
những thứ đồ đắt hơn vàng dùng để loài người hủy diệt môi trường xung
quanh và bắn giết lẫn nhau... Người lái xe hôm ấy là chú Sướng răng
hô, hiền lành người Phú Thọ. Chú Sướng là người đã từng lái xe chở thi
hài Chủ tịch Hồ Chí Minh qua mấy cuộc hành quân đi bảo quản trong địa
phận rừng núi tỉnh Hà Tây. Chú Sướng là tay lái tin cậy nhất hồi bấy
giờ, chú không uống rượu, không hút thuốc, tính tình rất hiền lành cởi
mở. Chiếc xe hôm chúng tôi đi là chiếc Bắc Kinh còn mới, nước sơn màu
xanh cỏ úa thơm sực nức mùi xăng và mùi hóa chất từ những tấm đệm ghế
bằng nhựa giả da tỏa ra. Xe rời cổng Doanh trại, đi qua phố Sơn Tây, qua
cầu Giấy về hướng Hà Đông. Đó là một ngày đầu thu nắng đẹp, Hà Nội nhỏ
bé nghèo nàn sau những năm dài chiến tranh phơi mình bình yên dưới nắng
thu dìu dịu buổi sáng. Những người dân chậm rãi đạp xe, đi bộ hay gồng
gánh trong những phố phường, phần nhiều họ trông gầy gò, ăn mặc thiếu
thốn và quá ư giản dị. Trang phục chủ yếu của những người đàn ông là
quần áo bộ đội cũ bạc mầu, đội nón, mũ cối hay mũ lá đan bằng lá cọ.
Những người phụ nữ thì mặc áo sơ mi vải phin Nam Định có in hoa hoặc màu
trắng nhờ vì hồi đó xà phòng giặt còn thiếu thốn lắm, quần áo của mọi
người thường có mầu nhờ nhờ của bụi đất. Thường thường những người phụ
nữ đi guốc hoặc dép nhựa, họ hay mặc quần bằng vải xa tanh đen, có vài
người mặc quần áo công nhân màu xanh nước biển bạc phếch, có người đội
khăn vuông để che nắng. Hồi ấy khi qua đến đập Phùng một quãng là đã rất
vắng người, tôi nhìn qua cửa kính xe thấy những đồng lúa, và hoa mầu
xanh thẫm trải dài ngút mắt, những mái nhà lợp bằng rơm rạ cũ kỹ mầu tro
ẩn nấp, thấp thoáng sau những lũy tre. Cuộc sống của nhân dân hồi ấy
quá ư thanh bình vô sự. Xa xa thấp thoáng những đỉnh núi thấp và mờ
nhạt, những dòng sông nằm sâu hoang vắng, quanh co qua những xóm thôn,
những cánh đồng màu mỡ. Tôi chợt nhớ đến bài hát "Hà Tây quê lụa" của
nhạc sĩ Nhật Lai hồi ấy đang rất thịnh hành và thường được phát trên Đài
tiếng nói Việt Nam trong những chương trình ca nhạc.
Bóng chiếc thoi đưa ánh mắt long lanh
Trời đất Hà Tây tay em dệt lụa
Sữa trắng Ba Vì, thóc vàng khu Cháy
Hồn thơ Nguyễn Trãi dệt thành vần
Sông Tích sông Đà giăng lụa mênh mông
Đan Phượng ơi! Quê hương người gái đảm
Đồng hợp tác xanh tươi cấy cầy thẳng tắp
Anh phi công bàng hoàng ngỡ mình bay trên gấm vóc...
Chúng
tôi chạy đến thị xã Sơn Tây thì rẽ trái vào một con đường mới làm rất
đẹp. Con đường ấy mới lắm, nhựa đường mềm mại, đen xì phẳng lì uốn quanh
những cánh rừng mọc toàn cây thông già. Thấy tôi reo lên thích thú ông
Phụng cắt nghĩa rằng con đường này là do công nhân làm đường của nước
bạn Cu Ba thi công. Con đường đẹp thế mà có chỗ bị sạt lở do nước mạch
chảy ngầm ở dưới mặt đất phun lên làm nứt mặt đường thành những mảng
lớn. Ở chỗ nứt người ta tạm khắc phục bằng cách hạ ngay những cây thông ở
ven đường kê lên chỗ sạt lở cho xe đi. Đây là con đường duy nhất dẫn
vào khu mật cứ Đá Chông mà trên suốt dọc đường đi chúng tôi không gặp
một bóng người nào.
Xe chạy chừng ba mươi phút nữa thì gần đến căn cứ, ông Phụng ra lệnh xuống xe để đi giải. Thế là chúng tôi vào rừng để đi giải, về sau tôi mới biết ở trong quân ngũ việc đi giải cũng phải có tổ chức. Chúng tôi đứng ngay ven rừng mà tùy tiện. Cánh rừng này hoang vắng quạnh hưu mọc toàn cây thông, ở dưới là một tầng cây nhỏ lúp xúp cao tới đầu gối. Thỉnh thoảng tôi mới nghe thấy tiếng chim hót nho nhỏ ở đâu đây, những ánh nắng xanh nhợt nhạt yếu ớt xuyên chéo qua những tán cây dầy đặc không đủ sưởi ấm và làm khô những đám sương còn đọng lại trên lá cây từ đêm hôm qua. Rồi chúng tôi lên xe chính thức chạy vào điạ phận được bảo vệ nghiêm ngặt của mật khu Đá Chông. Nếu như đường từ thị xã Sơn Tây chạy vào tới đây tốt đẹp bao nhiêu thì đường ở đây xấu và hiểm trở bấy nhiêu. Con đường này rất nhỏ, chỉ vừa một xe đi, tôi không hiểu nếu có xe ra thì phải làm thế nào, hay là quy định ở đây chỉ cho phép mỗi lần được một xe vào hoặc ra?. Đường ở đây không được trải nhựa mà được rải toàn những thứ đá to như những nắm tay, những quả bưởi, làm cho bất cứ phương tiện giao thông nào vào đây cũng bị phát biện từ xa bởi tiếng động rào rào do những bánh xe ngiến vào đá gây nên. Dọc hai bên đường lau mọc ngút đầu người, những chiếc lá lau dài và sắc trông như những chiếc là mía quật ràn rạt vào hai bên thành xe. Phía hai bên đường cây cối bị đốt trụi làm trơ ra mặt đất khô cứng với những thân cây lớn chưa cháy hết đen xì mầu than nằm xen lẫn với những tảng đá mồ côi to lớn. Tôi không hiểu tại sao người ta lại cho đốt rừng, đã có lúc tôi nghĩ Cơ quan An ninh - Phản gián cho đốt để kiểm tra xem có địch gài mìn, đào hầm xâm nhập, hay có những phương tiện nghe nhìn của đối phương bố trí hay không. Xe chạy qua một khe khô ngổn ngang cây mục, lá mục và cỏ dại thì tới cổng gác, có một người lính nghiêm trang ra chào rồi mở thanh chắn đường cho xe chúng tôi vào. Chúng tôi dừng xe chỗ khu nhà nghỉ của Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Một toán các chú sĩ quan hồ hởi ra đón chúng tôi, ai cũng tay bắt mặt mừng. Ông Phụng cả cười, nhanh nhẹn cùng đám sĩ quan vào Ban chỉ huy để mau chóng bắt tay ngay vào công việc, để rồi những báo cáo sau đó sẽ được viên sĩ quan Cơ yếu mã hóa gửi ngay về Bộ Tư lệnh ở Hà Nội. Thật lúc ấy tôi không thể quên nổi cảm giác sung sướng khi nhìn thấy cảnh rừng núi thơ mộng mà trước đây tôi chỉ được biết qua những bài học trong sách tập đọc hồi cấp một hoặc qua những câu chuyện kể chứ chưa thực sự được mục kích bao giờ. Tôi nhẩy xuống xe chạy đến bên một cây to thân thẳng tắp và cao vút ngửa mặt nhìn lên, tôi thấy những con kì nhông nhỏ như những con thạch sùng với cái đuôi mầu xám xòe ra như những bông lau nhỏ đang thoăn thắt leo lên trên cây. Thấy tôi lộ vẻ vui thích quá độ các chú sĩ quan cười ngất, vì đối với họ thì chú kì nhông nhỏ chả có gì là hấp dẫn, và họ rất quý hóa tôi vì nơi đây rừng sâu núi đỏ quanh năm không một bóng trẻ con. Đối với họ thì niềm mơ ước là được cấp trên cho về tranh thủ để thăm vợ thăm con, để giúp đỡ gia đình vào những dịp mùa màng, hay tổ chức những bữa cải thiện nho nhỏ tại đơn vị, ngõ hầu xua bớt cái không khí hoang vắng, quạnh hưu nơi núi rừng. Tôi còn nhìn thấy một con chim xanh nơi cánh rừng trước mặt gần nơi đỗ xe khoảng 20 - 25 mét. Con chim mầu xanh cánh chả rất đẹp mắt, nó đang ấp trứng trong một bộng cây không cao lắm và thò cái cổ thon thả ra ngoài. Theo phản xạ tôi định lao đến bắt vì tôi đoán sẽ có chim non ở trong tổ, nếu bắt được chú chim đẹp thế mang về Hà Nội nuôi thì còn gì thú vị bằng. Rằng tôi sẽ được nổi tiếng, sẽ là trung tâm chú ý của nhiều người vì ai cũng sẽ phải trầm trồ khâm phục con chim lạ, đẹp mắt chưa thấy có bán ở đâu. Nhưng các chú sĩ quan mỉm cười, ngăn tôi lại, họ lắc đầu tỏ vẻ phản đối ý định bắt chim của tôi. Không có cách nào khác tôi phải phục tùng dù trong bụng tiếc lắm. Sau này tôi nghĩ lại và thấy cũng đúng, vì ai biết những cạm bẫy, hầm chông nguy hiểm nào đang chờ tôi dưới những tán rừng...Tôi quay ra hỏi các chú đang đứng xung quanh xem rừng có hổ không, các chú không đáp mà chỉ nhìn tôi cười thân thiện. Sau này tôi mới biết rằng các chú đang phục tùng nguyên tắc "sống để bụng, chết mang đi ...hỏi không nói" do cấp trên đề ra, ai vi phạm nguyên tắc này đều sẽ bị xử lí nghiêm khắc để giữ nghiêm quân lệnh. Khi dẫn tôi lên đây, ông Phụng cũng không hề giải thích là đi đâu, ông không nói gì về khu vực này ở đâu, nó được xây dựng để làm gì. Những chuyện này cho tới lúc lớn khôn tôi mới tò mò suy luận, tìm hiểu và vỡ ra. Lúc ấy do thích thú và tò mò, tôi chạy ngay vào rừng để xem cho thỏa thích, có chú dọa "trong có hổ đấy", thế là tôi thần hồn nát thần tính lại chạy trở ra, các chú sĩ quan lại cười rộ. Thời xa xưa, khu rừng này chắc chắn có những loài thú dữ như hổ, báo, gấu ngựa v.v sử sách còn ghi rằng vào thời vua Lê thỉnh thoảng có hổ từ Hà Tây lạc về tận Kinh thành. Nhưng sau này, qua suốt quá trình nội chiến tranh giành quyền hành và đất đai của các thế lực phong kiến, những cuộc truy lùng tiêu diệt khởi nghĩa của quân Thanh vào tận nơi đây, rồi những cuộc càn quét quy mô lớn của quân Pháp đã biến chốn này thành hoang vu. Hổ không còn nữa, gấu thì rút về tận núi Ba Vì để tìm nơi nương náu, rừng Đá Chông hồi đó có lẽ chỉ còn ít hươu nai, chồn cáo, chim chóc, chuột dúi, sóc và gà rừng...
Chú Luyện người Hải Hậu là người dắt tay tôi đi xem xét xung quanh khu mật cứ. Việc đầu tiên là chú dẫn tôi vào sát bìa rừng, tới bên một cây cổ thụ, chú vạch lá chỉ cho tôi nơi chú giấu một chùm quả vả khá to chín đỏ mọng. Quả vả gần giống quả sung, khi chín mầu đỏ ăn vừa mềm lại vừa ngọt, một vị ngọt dìu dịu và giản dị như cái tên của nó. Chú Luyện hái một quả vả lớn nhất, chú bẻ đôi quả vả, chú thổi sạch những con ruồi mật nhỏ bé không biết bằng cách nào chui được vào trong đó, rồi chú dậy tôi ngửa cổ lên hút mấy giọt nước mật ngọt ngào trông như những giọt sương trong quả vả. Sau đó chú cõng tôi đi tìm những quả đu đủ chú giấu dưới những bụi cỏ khô ngay dưới gốc cây. Sau khi ăn chán đu đủ chú dẫn tôi xuống những bực dốc ngay dưới chân khu nhà ăn của Bộ Chính trị và những người phục vụ. Ở lưng dốc này chú có một căn phòng nhỏ sơ sài, căn phòng này được khoét vào vách núi. Bên cạnh phòng chú là cỗ máy phát điện có vẻ như do Trung Quốc trang bị nằm trong một căn phòng khá rộng cũng được khoét vào vách núi. Ở phía ngoài chú để vài cái xô tôn đựng dầu cáu bẩn, một vài bộ quần áo bảo hộ lao động lấm lem, cái cờ lê, cái tay quay và mấy tấm giẻ lau đen xì dầu mỡ. Chú Luyện là cấp dưới, là người đồng chí và cũng là người đồng hương mà ông Phụng quý nhất. Chú được phân công phụ trách chiếc máy phát điện để cung cấp điện cho toàn khu căn cứ. Trong lúc chú Luyện sung sướng giới thiệu cho tôi cái cơ ngơi giản đơn của chú thì ở trên chú Sen và mấy chú sĩ quan khác đang chuẩn bị liên hoan. Lúc mới lên tôi đã thấy một con gấu chó được buộc vào một gốc cây trước cửa nhà ăn, tôi không biết nó là chó hay là gấu nữa, tôi thấy chú Sen gọi loáng thoáng là con chó gấu, hay gấu chó gì đấy. Chú bảo chú đi vào trong dân để xin măng vầu, măng giang về nấu ăn. Tôi nghĩ ở cách khu Đá Chông khá xa có một làng xóm của dân ở, tôi chưa từng được vào khu dân cư này để có thể hầu chuyện lại cho các quý độc giả được biết.
Chú Luyện và tôi loanh quanh một lúc thì chú Sen niềm nở xuống tận nơi mời về ăn cơm. Bữa cơm được dọn ngay trong nhà ăn, nơi các Uỷ viên Bộ Chính trị thường ăn mỗi khi lên làm việc tại đây trong suốt thời gian chiến tranh Việt - Mỹ. Bữa cơm gồm có thịt chó gấu, hay gấu chó gì đấy xào xáo thành mấy món, đĩa tiết xào măng ăn hơi đăng đắng nhưng rất giòn và ngon. Bữa ăn hôm ấy còn có thịt gà luộc, chai rượu, mấy món rau, hai xoong quân dụng đựng cơm tẻ, riêng ông Phụng được chiêu đãi món cơm nếp nương đặc biệt. Gạo nếp nương trông không khác gạo nếp thường dưới xuôi là mấy, chỉ khác là hạt nhỏ hơn, và được giã sơ qua cho còn nguyên lớp màng xanh bao quanh hạt gạo chứ không giã kĩ đến trắng sữa như gạo nếp dưới xuôi. Cơm ấy tôi được ăn vài lần và thấy rằng cơm rất ngon, ăn thơm và dẻo, lại kêu lép bép trong miệng khi nhai rất thú vị. Bữa tiệc rất ngon miệng diễn ra trong bầu không khí vui vẻ và đoàn kết, mọi người uống rượu mừng. Ông Phụng không uống được rượu nên chỉ tợp hột hớp là ông đỏ mặt. Sau bữa cơm mọi người quây quần bên bàn trà mà chuyện trò rôm rả, khói thuốc lá bay lên trắng xoá.Trong lúc mọi người đang vui vẻ đàm đạo, chú Luyện dắt tôi lỉnh đi chơi, mọi người sau đó đi nghỉ trưa. Chú Luyện dắt tôi ra chỗ chiếc xe tăng T34 nằm gần nơi đỗ máy bay trực thăng, hồi những năm chiến tranh phương tiện đi lại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là máy bay trực thăng. Chiếc xe tăng đang nằm trong một công sự rộng bằng một căn phòng, một chiếc xe tăng thật sự chứ không phải chỉ là những hình ảnh tôi vẫn xem trong phim.
Xe chạy chừng ba mươi phút nữa thì gần đến căn cứ, ông Phụng ra lệnh xuống xe để đi giải. Thế là chúng tôi vào rừng để đi giải, về sau tôi mới biết ở trong quân ngũ việc đi giải cũng phải có tổ chức. Chúng tôi đứng ngay ven rừng mà tùy tiện. Cánh rừng này hoang vắng quạnh hưu mọc toàn cây thông, ở dưới là một tầng cây nhỏ lúp xúp cao tới đầu gối. Thỉnh thoảng tôi mới nghe thấy tiếng chim hót nho nhỏ ở đâu đây, những ánh nắng xanh nhợt nhạt yếu ớt xuyên chéo qua những tán cây dầy đặc không đủ sưởi ấm và làm khô những đám sương còn đọng lại trên lá cây từ đêm hôm qua. Rồi chúng tôi lên xe chính thức chạy vào điạ phận được bảo vệ nghiêm ngặt của mật khu Đá Chông. Nếu như đường từ thị xã Sơn Tây chạy vào tới đây tốt đẹp bao nhiêu thì đường ở đây xấu và hiểm trở bấy nhiêu. Con đường này rất nhỏ, chỉ vừa một xe đi, tôi không hiểu nếu có xe ra thì phải làm thế nào, hay là quy định ở đây chỉ cho phép mỗi lần được một xe vào hoặc ra?. Đường ở đây không được trải nhựa mà được rải toàn những thứ đá to như những nắm tay, những quả bưởi, làm cho bất cứ phương tiện giao thông nào vào đây cũng bị phát biện từ xa bởi tiếng động rào rào do những bánh xe ngiến vào đá gây nên. Dọc hai bên đường lau mọc ngút đầu người, những chiếc lá lau dài và sắc trông như những chiếc là mía quật ràn rạt vào hai bên thành xe. Phía hai bên đường cây cối bị đốt trụi làm trơ ra mặt đất khô cứng với những thân cây lớn chưa cháy hết đen xì mầu than nằm xen lẫn với những tảng đá mồ côi to lớn. Tôi không hiểu tại sao người ta lại cho đốt rừng, đã có lúc tôi nghĩ Cơ quan An ninh - Phản gián cho đốt để kiểm tra xem có địch gài mìn, đào hầm xâm nhập, hay có những phương tiện nghe nhìn của đối phương bố trí hay không. Xe chạy qua một khe khô ngổn ngang cây mục, lá mục và cỏ dại thì tới cổng gác, có một người lính nghiêm trang ra chào rồi mở thanh chắn đường cho xe chúng tôi vào. Chúng tôi dừng xe chỗ khu nhà nghỉ của Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Một toán các chú sĩ quan hồ hởi ra đón chúng tôi, ai cũng tay bắt mặt mừng. Ông Phụng cả cười, nhanh nhẹn cùng đám sĩ quan vào Ban chỉ huy để mau chóng bắt tay ngay vào công việc, để rồi những báo cáo sau đó sẽ được viên sĩ quan Cơ yếu mã hóa gửi ngay về Bộ Tư lệnh ở Hà Nội. Thật lúc ấy tôi không thể quên nổi cảm giác sung sướng khi nhìn thấy cảnh rừng núi thơ mộng mà trước đây tôi chỉ được biết qua những bài học trong sách tập đọc hồi cấp một hoặc qua những câu chuyện kể chứ chưa thực sự được mục kích bao giờ. Tôi nhẩy xuống xe chạy đến bên một cây to thân thẳng tắp và cao vút ngửa mặt nhìn lên, tôi thấy những con kì nhông nhỏ như những con thạch sùng với cái đuôi mầu xám xòe ra như những bông lau nhỏ đang thoăn thắt leo lên trên cây. Thấy tôi lộ vẻ vui thích quá độ các chú sĩ quan cười ngất, vì đối với họ thì chú kì nhông nhỏ chả có gì là hấp dẫn, và họ rất quý hóa tôi vì nơi đây rừng sâu núi đỏ quanh năm không một bóng trẻ con. Đối với họ thì niềm mơ ước là được cấp trên cho về tranh thủ để thăm vợ thăm con, để giúp đỡ gia đình vào những dịp mùa màng, hay tổ chức những bữa cải thiện nho nhỏ tại đơn vị, ngõ hầu xua bớt cái không khí hoang vắng, quạnh hưu nơi núi rừng. Tôi còn nhìn thấy một con chim xanh nơi cánh rừng trước mặt gần nơi đỗ xe khoảng 20 - 25 mét. Con chim mầu xanh cánh chả rất đẹp mắt, nó đang ấp trứng trong một bộng cây không cao lắm và thò cái cổ thon thả ra ngoài. Theo phản xạ tôi định lao đến bắt vì tôi đoán sẽ có chim non ở trong tổ, nếu bắt được chú chim đẹp thế mang về Hà Nội nuôi thì còn gì thú vị bằng. Rằng tôi sẽ được nổi tiếng, sẽ là trung tâm chú ý của nhiều người vì ai cũng sẽ phải trầm trồ khâm phục con chim lạ, đẹp mắt chưa thấy có bán ở đâu. Nhưng các chú sĩ quan mỉm cười, ngăn tôi lại, họ lắc đầu tỏ vẻ phản đối ý định bắt chim của tôi. Không có cách nào khác tôi phải phục tùng dù trong bụng tiếc lắm. Sau này tôi nghĩ lại và thấy cũng đúng, vì ai biết những cạm bẫy, hầm chông nguy hiểm nào đang chờ tôi dưới những tán rừng...Tôi quay ra hỏi các chú đang đứng xung quanh xem rừng có hổ không, các chú không đáp mà chỉ nhìn tôi cười thân thiện. Sau này tôi mới biết rằng các chú đang phục tùng nguyên tắc "sống để bụng, chết mang đi ...hỏi không nói" do cấp trên đề ra, ai vi phạm nguyên tắc này đều sẽ bị xử lí nghiêm khắc để giữ nghiêm quân lệnh. Khi dẫn tôi lên đây, ông Phụng cũng không hề giải thích là đi đâu, ông không nói gì về khu vực này ở đâu, nó được xây dựng để làm gì. Những chuyện này cho tới lúc lớn khôn tôi mới tò mò suy luận, tìm hiểu và vỡ ra. Lúc ấy do thích thú và tò mò, tôi chạy ngay vào rừng để xem cho thỏa thích, có chú dọa "trong có hổ đấy", thế là tôi thần hồn nát thần tính lại chạy trở ra, các chú sĩ quan lại cười rộ. Thời xa xưa, khu rừng này chắc chắn có những loài thú dữ như hổ, báo, gấu ngựa v.v sử sách còn ghi rằng vào thời vua Lê thỉnh thoảng có hổ từ Hà Tây lạc về tận Kinh thành. Nhưng sau này, qua suốt quá trình nội chiến tranh giành quyền hành và đất đai của các thế lực phong kiến, những cuộc truy lùng tiêu diệt khởi nghĩa của quân Thanh vào tận nơi đây, rồi những cuộc càn quét quy mô lớn của quân Pháp đã biến chốn này thành hoang vu. Hổ không còn nữa, gấu thì rút về tận núi Ba Vì để tìm nơi nương náu, rừng Đá Chông hồi đó có lẽ chỉ còn ít hươu nai, chồn cáo, chim chóc, chuột dúi, sóc và gà rừng...
Chú Luyện người Hải Hậu là người dắt tay tôi đi xem xét xung quanh khu mật cứ. Việc đầu tiên là chú dẫn tôi vào sát bìa rừng, tới bên một cây cổ thụ, chú vạch lá chỉ cho tôi nơi chú giấu một chùm quả vả khá to chín đỏ mọng. Quả vả gần giống quả sung, khi chín mầu đỏ ăn vừa mềm lại vừa ngọt, một vị ngọt dìu dịu và giản dị như cái tên của nó. Chú Luyện hái một quả vả lớn nhất, chú bẻ đôi quả vả, chú thổi sạch những con ruồi mật nhỏ bé không biết bằng cách nào chui được vào trong đó, rồi chú dậy tôi ngửa cổ lên hút mấy giọt nước mật ngọt ngào trông như những giọt sương trong quả vả. Sau đó chú cõng tôi đi tìm những quả đu đủ chú giấu dưới những bụi cỏ khô ngay dưới gốc cây. Sau khi ăn chán đu đủ chú dẫn tôi xuống những bực dốc ngay dưới chân khu nhà ăn của Bộ Chính trị và những người phục vụ. Ở lưng dốc này chú có một căn phòng nhỏ sơ sài, căn phòng này được khoét vào vách núi. Bên cạnh phòng chú là cỗ máy phát điện có vẻ như do Trung Quốc trang bị nằm trong một căn phòng khá rộng cũng được khoét vào vách núi. Ở phía ngoài chú để vài cái xô tôn đựng dầu cáu bẩn, một vài bộ quần áo bảo hộ lao động lấm lem, cái cờ lê, cái tay quay và mấy tấm giẻ lau đen xì dầu mỡ. Chú Luyện là cấp dưới, là người đồng chí và cũng là người đồng hương mà ông Phụng quý nhất. Chú được phân công phụ trách chiếc máy phát điện để cung cấp điện cho toàn khu căn cứ. Trong lúc chú Luyện sung sướng giới thiệu cho tôi cái cơ ngơi giản đơn của chú thì ở trên chú Sen và mấy chú sĩ quan khác đang chuẩn bị liên hoan. Lúc mới lên tôi đã thấy một con gấu chó được buộc vào một gốc cây trước cửa nhà ăn, tôi không biết nó là chó hay là gấu nữa, tôi thấy chú Sen gọi loáng thoáng là con chó gấu, hay gấu chó gì đấy. Chú bảo chú đi vào trong dân để xin măng vầu, măng giang về nấu ăn. Tôi nghĩ ở cách khu Đá Chông khá xa có một làng xóm của dân ở, tôi chưa từng được vào khu dân cư này để có thể hầu chuyện lại cho các quý độc giả được biết.
Chú Luyện và tôi loanh quanh một lúc thì chú Sen niềm nở xuống tận nơi mời về ăn cơm. Bữa cơm được dọn ngay trong nhà ăn, nơi các Uỷ viên Bộ Chính trị thường ăn mỗi khi lên làm việc tại đây trong suốt thời gian chiến tranh Việt - Mỹ. Bữa cơm gồm có thịt chó gấu, hay gấu chó gì đấy xào xáo thành mấy món, đĩa tiết xào măng ăn hơi đăng đắng nhưng rất giòn và ngon. Bữa ăn hôm ấy còn có thịt gà luộc, chai rượu, mấy món rau, hai xoong quân dụng đựng cơm tẻ, riêng ông Phụng được chiêu đãi món cơm nếp nương đặc biệt. Gạo nếp nương trông không khác gạo nếp thường dưới xuôi là mấy, chỉ khác là hạt nhỏ hơn, và được giã sơ qua cho còn nguyên lớp màng xanh bao quanh hạt gạo chứ không giã kĩ đến trắng sữa như gạo nếp dưới xuôi. Cơm ấy tôi được ăn vài lần và thấy rằng cơm rất ngon, ăn thơm và dẻo, lại kêu lép bép trong miệng khi nhai rất thú vị. Bữa tiệc rất ngon miệng diễn ra trong bầu không khí vui vẻ và đoàn kết, mọi người uống rượu mừng. Ông Phụng không uống được rượu nên chỉ tợp hột hớp là ông đỏ mặt. Sau bữa cơm mọi người quây quần bên bàn trà mà chuyện trò rôm rả, khói thuốc lá bay lên trắng xoá.Trong lúc mọi người đang vui vẻ đàm đạo, chú Luyện dắt tôi lỉnh đi chơi, mọi người sau đó đi nghỉ trưa. Chú Luyện dắt tôi ra chỗ chiếc xe tăng T34 nằm gần nơi đỗ máy bay trực thăng, hồi những năm chiến tranh phương tiện đi lại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là máy bay trực thăng. Chiếc xe tăng đang nằm trong một công sự rộng bằng một căn phòng, một chiếc xe tăng thật sự chứ không phải chỉ là những hình ảnh tôi vẫn xem trong phim.
Xe tăng T34 của Liên Xô
Xe
T34 là loại xe tăng hạng trung, nổi tiếng trong Đại chiến thế giới thứ
hai. Nó có vỏ thép rất dày, được trang bị pháo 76 ly và đại liên 7,62
ly. Chiếc xe tăng này còn được trang bị thêm một khẩu đại liên 12,7 ly
kềnh cành trên tháp pháo. Chú Luyện ra sức nhấc tấm cửa thép nặng trịch
ngay trước mũi xe, chú dùng một thanh gỗ rất cứng, dài cỡ 40 phân chống
cửa xe lên để cho tôi chui vào trong xe chơi. Trong xe chật chội, nhưng
được bố trí rất ngăn nắp và khoa học. Đầu tiên đập vào mắt tôi là dãy
đạn pháo hàng chục viên vàng choé xếp xung quanh thành xe, lại còn một
băng đại liên 12,7 ly lòng thòng thả từ tháp pháo xuống tận sàn xe. Tôi
ngồi vào chiếc ghế bằng da đã sờn của lái xe, đưa mắt nhìn ra ngoài qua
một tấm kính rất dày, có thể chống được đạn bộ binh. Tôi còn thấy vài
cái hòm bằng gỗ thông, chắc là để chứa đồ sửa chữa như kìm, tô vít, lắc
lê v. v ...vài tấm giẻ lau đen nhẻm dầu mỡ, mấy chiếc mũ kì lạ mầu đen
của lính lái tăng. Tất cả đều ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, sẵn
sàng giáng trả bất kỳ một cuộc tập kích nào của đối phương cách nhanh
chóng nhất, hiệu quả nhất. Hồi đó ông Phụng giới thiệu với tôi chú Ngọ,
ông nói chú là một trong những lính lái xe tăng của căn cứ. Chú Ngọ tuổi
khoảng ngoài đôi mươi, vóc người cao lớn trắng trẻo và rất đẹp trai.
Dưới cằm chú có chiếc bớt nhỏ mầu nâu nhạt trông rất có duyên, chú rất
hiền và có vẻ hơi lì, cả ngày chả nói năng gì.
Sau khi đã nghịch chán chê trong xe tăng, chú Luyện dẫn tôi đi xem hồ nước nhỏ trước nhà sàn. Nhà sàn là nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ở dưới nhà sàn là phòng họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Chiếc hồ này rất nhỏ, thành hồ được xây bằng đá khá kiên cố, trong hồ có hòn núi giả bằng đá thiên nhiên có cây cối mọc lên và những đám rễ chằng chịt bám quanh núi đá trông rất đẹp mắt. Nghe nói trước đây Chủ tich Hồ Chí Minh cho nuôi rùa vàng và ngỗng ở đây, vì ngỗng rất thính tai nên chúng làm nhiệm vụ canh gác vào ban đêm còn tốt hơn cả chó. Khi tôi lên tôi không thấy ngỗng, có lẽ vào thời hòa bình người ta không còn cần chúng canh gác nữa, tôi chỉ còn thấy mấy chú rùa vàng nằm lười biếng phơi nắng trên hòn giả sơn giữa hồ. Hồ này nằm ngay trước căn nhà sàn, xung quanh là đường đi bách bộ được rải toàn sỏi nhỏ. Đường đi này chạy từ nhà sàn ra, khi gặp hồ ấy nó rẽ ra làm hai nhánh, rồi lại nhập làm một sau khi qua hồ, qua mấy tảng đá nhọn hình mũi chông rồi chạy thẳng ra bờ sông Đà.
Sau khi đã nghịch chán chê trong xe tăng, chú Luyện dẫn tôi đi xem hồ nước nhỏ trước nhà sàn. Nhà sàn là nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ở dưới nhà sàn là phòng họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Chiếc hồ này rất nhỏ, thành hồ được xây bằng đá khá kiên cố, trong hồ có hòn núi giả bằng đá thiên nhiên có cây cối mọc lên và những đám rễ chằng chịt bám quanh núi đá trông rất đẹp mắt. Nghe nói trước đây Chủ tich Hồ Chí Minh cho nuôi rùa vàng và ngỗng ở đây, vì ngỗng rất thính tai nên chúng làm nhiệm vụ canh gác vào ban đêm còn tốt hơn cả chó. Khi tôi lên tôi không thấy ngỗng, có lẽ vào thời hòa bình người ta không còn cần chúng canh gác nữa, tôi chỉ còn thấy mấy chú rùa vàng nằm lười biếng phơi nắng trên hòn giả sơn giữa hồ. Hồ này nằm ngay trước căn nhà sàn, xung quanh là đường đi bách bộ được rải toàn sỏi nhỏ. Đường đi này chạy từ nhà sàn ra, khi gặp hồ ấy nó rẽ ra làm hai nhánh, rồi lại nhập làm một sau khi qua hồ, qua mấy tảng đá nhọn hình mũi chông rồi chạy thẳng ra bờ sông Đà.
Tôi đã từng bắn chim bằng súng cao su ở cánh rừng này
Nguyên
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất quan tâm nghiên cứu và hiểu biết về
Hán học, ông rất rành về Kinh Dịch và thuật phong thủy nên đã cho xây hồ
này. Hồ này ngoài việc làm tăng thêm vẻ đẹp cho cảnh trí xung quanh,
làm hài hòa và bớt đi vẻ hoang vu của núi rừng nó còn có tác dụng giống
như một thành quách thiên nhiên nhân tạo thu nhỏ nhằm che chở cho nhà
sàn trước những tai ương, những tà khí vô hình nào xâm nhập nhà sàn. Tôi
còn đoán rằng hồ này ẩn chứa những điều bí mật gì đó liên quan đến công
tác phòng gian bảo mật của mật khu mà ta chưa biết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người rất quan tâm rèn lyện sức khỏe nên mới cho rải sỏi kín hết những con đường đi bộ quanh nhà sàn. Những viên sỏi này ngoài việc làm nhiệm vụ xoa bóp bàn chân cho người đi bộ, nó còn có tác dụng báo động khi có người và thú đi lên chốc bởi tiếng kêu rào rào không cách gì giấu được.
Con đường rải sỏi này chạy xuyên qua rừng ra tận sông Đà. Hồi nhỏ, tôi còn được nhiều lần lên đây, tôi mang theo súng cao su để đi bắn chim. Tôi có mò vào khu rừng này để bắn chim, tôi thấy có những con chim to gần như con gà, chắc là gà rừng hay một giống diều nào đó. Tôi giương súng lên bắn nhưng do quá hồi hộp nên tôi bắn trượt, cả buổi trưa chả bắn trúng con nào. Tôi cũng đồ rằng có thể Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lành đạo còn di chuyển bằng đường thủy. Có thể còn có một bến cảng bí mật nào nằm dưới mặt nước kia, liệu ở dưới đó có những tổ người nhái thường xuyên kiểm tra và bảo vệ hay không? Tôi không biết, tôi chỉ tiếc nếu tôi thông minh ra chút nữa mà kịp hỏi ông Phụng tất cả mọi điều trước lúc ông mất thì có lẽ cuốn sách này sẽ hay hơn nhiều. Thật đáng tiếc.
Hai bên con đường sỏi này trồng trồng hai hàng vải thiều quả sai trĩu cành, những cây vải rất thấp nhưng cho rất nhiều những trùm quả tròn căng, đỏ rực. Mấy lần tôi định hái ăn nhưng ông Phụng và các chú nghiêm cấm tuyệt đối không cho sờ vào. Sau này không hiểu vì lý do gì nhười ta đã chặt hết những cây vải này làm cho con đường sỏi trở nên chống trơ... Quanh khu nhà sàn là những vườn cây râm mát, những con sóc mầu nâu hoặc mầu đen với những chiếc đuôi cong xù lông chạy thoăn thoắt. Tôi thích lắm , muốn nhanh chóng tóm ngay một chú để nuôi, nhưng sớm hiểu ra rằng chuyện bắt được sóc chỉ là chuyện hoang đường.
Trước cửa nhà sàn có một cây lan đỏ không lớn lắm. Cây lan này do chính tay Phu nhân Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu trồng vào hồi mùa xuân năm 1960. Hoa lan đỏ trông na ná như hoa ngọc lan bình thường mà các cô gái hồi ấy hay thích cài lên mái tóc, chỉ khác ở chỗ là hoa lan đỏ to hơn và có màu đỏ nhạt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người rất quan tâm rèn lyện sức khỏe nên mới cho rải sỏi kín hết những con đường đi bộ quanh nhà sàn. Những viên sỏi này ngoài việc làm nhiệm vụ xoa bóp bàn chân cho người đi bộ, nó còn có tác dụng báo động khi có người và thú đi lên chốc bởi tiếng kêu rào rào không cách gì giấu được.
Con đường rải sỏi này chạy xuyên qua rừng ra tận sông Đà. Hồi nhỏ, tôi còn được nhiều lần lên đây, tôi mang theo súng cao su để đi bắn chim. Tôi có mò vào khu rừng này để bắn chim, tôi thấy có những con chim to gần như con gà, chắc là gà rừng hay một giống diều nào đó. Tôi giương súng lên bắn nhưng do quá hồi hộp nên tôi bắn trượt, cả buổi trưa chả bắn trúng con nào. Tôi cũng đồ rằng có thể Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lành đạo còn di chuyển bằng đường thủy. Có thể còn có một bến cảng bí mật nào nằm dưới mặt nước kia, liệu ở dưới đó có những tổ người nhái thường xuyên kiểm tra và bảo vệ hay không? Tôi không biết, tôi chỉ tiếc nếu tôi thông minh ra chút nữa mà kịp hỏi ông Phụng tất cả mọi điều trước lúc ông mất thì có lẽ cuốn sách này sẽ hay hơn nhiều. Thật đáng tiếc.
Hai bên con đường sỏi này trồng trồng hai hàng vải thiều quả sai trĩu cành, những cây vải rất thấp nhưng cho rất nhiều những trùm quả tròn căng, đỏ rực. Mấy lần tôi định hái ăn nhưng ông Phụng và các chú nghiêm cấm tuyệt đối không cho sờ vào. Sau này không hiểu vì lý do gì nhười ta đã chặt hết những cây vải này làm cho con đường sỏi trở nên chống trơ... Quanh khu nhà sàn là những vườn cây râm mát, những con sóc mầu nâu hoặc mầu đen với những chiếc đuôi cong xù lông chạy thoăn thoắt. Tôi thích lắm , muốn nhanh chóng tóm ngay một chú để nuôi, nhưng sớm hiểu ra rằng chuyện bắt được sóc chỉ là chuyện hoang đường.
Trước cửa nhà sàn có một cây lan đỏ không lớn lắm. Cây lan này do chính tay Phu nhân Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu trồng vào hồi mùa xuân năm 1960. Hoa lan đỏ trông na ná như hoa ngọc lan bình thường mà các cô gái hồi ấy hay thích cài lên mái tóc, chỉ khác ở chỗ là hoa lan đỏ to hơn và có màu đỏ nhạt.
Tổ ong bò vẽ trông như thế này đây
Trong
một lần lên đây, đó là một ngày hè năm 1978 tôi có lang thang ra gốc
cây lan đỏ này chơi, tò mò nhìn lên thấy có ai đó treo trên cành cây
những chiếc làn sơn màu vằn vện như mặt hổ phù trông rất đẹp. Tôi tinh
nghịch rút súng cao su trong túi ra, nhặt ngay viên sỏi dưới chân nhắm
vào những chiếc làn mà nhả đạn. Ôi thôi, không may cho tôi rồi, tôi đã
bắn thủng tổ ong bò vẽ, vốn là loài ong độc địa nhất, hung dữ nhất trong
các loài ong. Thôi thì hằng sa số hàng trăm con ong rời bỏ khỏi tổ nhằm
vào đầu tôi mà tấn công. Chúng đốt vào đầu tôi những nhát tiêm chí mạng
có chứa nọc độc khiến tôi đau đớn muốn té. May sao tôi là thằng bé hiếu
động, ưa nghịch ngợm nên kiên gan chẳng chịu đầu hàng, hay tại bản năng
sinh tồn của con người ta trỗi dậy lúc ấy khiến trong đầu tôi nảy ra
những quyết định rất nhanh và sáng suốt lạ thường. Tôi ra sức lấy tay
xoa mạnh trên đầu nhằm giết ngay tức khắc những con ong vừa bám vào đầu
tôi để không cho chúng kịp cắm những chiếc ngòi nhọn hoắt nguy hiểm qua
lớp da đầu. Vì Tôi biết nếu cứ để chúng đốt với tần xuất dầy đặc thế này
thì chỉ ít phút nữa là tôi sẽ bị nhiễm độc, cơ thể sẽ phù nề tím tái do
nọc ong gây nên, mà nhẹ thì lên cơn sốt, nặng thì hôn mê, trụy liệt cơ
tim dẫn tới tử vong. Vừa ra sức xoa tay giết ong tôi vừa nhanh chóng
chạy vào nhà kính, là nơi họp của Chủ tịch Hồ chí Minh và Bộ Chính trị.
Tôi nghĩ phải nhanh chóng khóa ngay đợt tấn công của hàng trăm con ong
hung dữ đang rời khỏi cái tổ của chúng mà à à lao theo tôi theo hình
chéo từ trên xuống phía dưới. Nếu tôi chậm trễ thi hành phương án này
thì điều xấu tất sẽ xảy đến với tôi là cái chắc. Và cuối cùng tôi cũng
vào được trong nhà, tôi nhanh chóng đóng sập cửa lại, mắt còn thấy đàn
ong hung hãn quần lượn một lúc lâu sau chúng mới bỏ đi. Sau trận này tôi
thấy da đầu đau nhức, buốt thon thót như có hàng ngàn mũi kim châm vào,
tôi sờ đầu thấy có tới bảy, tám cái u nho nhỏ do ngòi ong gây nên. Trên
cánh tay tôi cũng bị mấy nhát nữa, mỗi vết thương là một cái u như cái
cúc bấm nhô lên khỏi mặt da, ở giữa có một cái lỗ nhỏ ứa máu. Tôi không
lên cơn sốt (có lẽ do lúc còn trẻ tôi có sức đề kháng rất khỏe) mà chỉ
ngây ngấy ơn ớn rong người mất vài hôm. Về sau này tôi mới biết cách sử
dụng động vật để làm lính gác rất độc đáo và đầy tính chất hoà đồng với
môi trường thiên nhiên của Hồ chủ tịch. Nguyên phòng ngủ của ông trên
tầng hai của nhà sàn, là nơi gần với những cây cao mọc xung quanh, trong
đó có cây lan đỏ do bà Đặng dĩnh Siêu trồng như đã kể trên. Những cây
này ngoài mặt lợi là làm đẹp, làm râm mát ngôi nhà còn có mặt hại là nó
cũng là nơi mà gián điệp, biệt kích lợi dụng leo lên để nhòm ngó vào
phòng ngủ của Hồ chủ tịch, hoặc có khi chờ thời cơ hạ thủ. Để đề phòng
chuyện xấu Chủ tịch Hồ chí Minh đã cho nuôi ong bò vẽ trên các cay cao.
Kẻ nào cố tình leo lên cây tất không tránh khỏi sự tấn công của hàng
trăm con ong hung dữ, nếu kẻ đó giãy dụa sẽ gây ra tiếng động, hoặc sẽ
bị rơi phịch xuống đất và bị bắt sống. Trường hợp kẻ xâm nhập cố ngồi
im, chịu đau để giữ bí mật chắc sẽ chết vì nhiễm độc máu do nọc ong gây
nên.
Đây là nhà sàn ở Đá Chông, ảnh mùa đông năm 1967. Trong ảnh Hồ chủ tịch và
các Uỷ viên Bộ Chính trị đang bàn bạc chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy năm 1968. Trong ảnh hàng bên trái là một vị Đại tá (có lẽ là Cục trưởng Cục
Tác chiến), ông Lê Duẩn, ông Trường Chinh, Thượng tướng Văn Tiến Dũng. Hàng
bên phải là các ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt
Trở
lại câu chuyện về chuyến đi thăm mật cứ đầu tiên của tôi mùa thu năm
1976 như đã kể trên, sau khi nghỉ trưa và tiếp tục làm việc đến chiều
ông Phụng dắt tôi đi câu. Trước tiên ông dẫn tôi vào căn phòng ông từng ở
khi còn là Chỉ huy căn cứ. Ông Phụng có một căn phòng ở cách không xa
bờ sông Đà bao nhiêu. Căn phòng xây bằng gạch trộn vôi cát bình thường
và quét vôi vàng như bao nhiêu những ngôi nhà bình dị khác. Đường dẫn
tới ngôi nhà chỉ là một lối mòn rất nhỏ phủ đầy cỏ dại với lá mục. Chung
quanh nhà là những rặng ổi rừng quả sai trĩu chịt, tôi đã từng ăn thử
nhiều lần và thấy rằng ổi rừng vừa chát, vừa nhạt, thua xa những thứ ổi
vẫn trồng ở dưới xuôi. Có lẽ đất ở đây không còn mầu mỡ, hay do thiếu
bàn tay người chăm sóc nên những quả ổi rừng không được ngon chăng.
Căn phòng của ông Phụng rất nhỏ, thấp và tối, một bóng đèn quả lê đỏ cành cạch treo ở giữa nhà. Phía bên trong là chiếc giường cá nhân, chiếc hòm và một chiếc tủ nhỏ. Phía bên ngoài là một bể nước nhỏ có dẫn nước máy vào trong bể. Trong bể nước ông nuôi mấy con cá rô khá lớn. Thấy tôi ngạc nhiên trước việc nuôi cá, bởi vì với tôi việc nuôi cá trong bể nước chỉ làm cho nước thêm tanh mỗi khi dùng nước ấy rửa mặt, nấu ăn hoặc pha trà. Ông cười bảo:
- Cứ mỗi sáng sớm bố dậy kiểm tra nếu thấy cá chết nghĩa là trong nước máy có kẻ bỏ thuốc độc, sẽ ra lệnh khóa máy và báo động.
Thì ra ông thường xuyên kiểm tra nguồn nước sinh hoạt cho toàn khu Mật cứ, nên trong phòng ông mới có chiếc bể nước lộ thiên kì lạ tưởng như vô lý kia...Ở trên tường, chỗ gần bể nước ông để vài bộ đồ câu quăng để câu cá quả. Lối câu này là sở trường của dân miền chiêm trũng như Nam Định, Hà Nam. Dân ở đây câu quăng rất giỏi, họ bắt nhái làm mồi câu và sau vài giờ đồng hồ là thể nào họ cũng kéo lên được vài ba chú cá quả khỏe mạnh, béo múp. Ông có vài cái cần câu khá dài làm bằng cây trúc luôn được để sẵn trong phòng, một đôi ủng để ông lội rừng cho khỏi gai góc, hoặc lội hẳn xuống đầm để câu. Nhưng cái làm cho tôi thú vị nhất là trên bức tường ở trước mặt ông Phụng dán một loạt những đuôi cá quả rất to. Ông bảo khi nào câu được cá thật to ông hay chặt đuôi để làm kỉ niệm, thịt thì giao cho nhà bếp nấu lên để mấy thầy trò cùng ăn. Sau khi xem xét căn phòng xong chúng tôi quyết định đi câu. Hai cha con luồn theo lối mòn, chui qua bụi rậm còn ướt nước cơn mưa bóng mây vừa thoáng qua để đi câu cá quả. Ông Phụng là tay câu cự phách, thường thì khi đã ra đi là không mấy khi ông chịu về tay không. Lần này do thời gian có hạn vì chúng tôi phải gấp rút trở về Hà Nội nên sau mấy lần quăng mồi không được gì ông thu câu bảo tôi nghỉ tay. Mãi về sau này chúng mới đủ thời gian và điều kiện để đi câu một hôm cho thỏa thích, tôi mới chính thức mục kích tận mắt tài câu của ông Phụng.
Đó là một ngày cuối hè sang thu năm 1982, là ngày mà ông nhận được quyết định chính thức nghỉ hưu sau một thời gian dài nghỉ ở nhà không tham gia công tác trong Bộ Tư lệnh nữa vì lý do sức khỏe. Đây là lần cuối cùng ông Đinh Viết Phụng lên Đá Chông, cùng đi còn có Thiếu tướng Lương Soạn và ái nữ của ông - cô này mãi về sau mới được cha đưa vào đây, sau tôi là đứa trẻ đầu tiên được vào khu mật cứ. Thiếu tướng Lương Soạn mặc quân phục không mang quân hàm, ông Phụng mặc quần sơ vi ốt, áo lụa tơ tằm mầu mỡ gà. Đối với ông Phụng đó là một ngày buồn thương, vì ông phải chia tay với những gì gắn bó với ông gần suốt cuộc đời quân ngũ. Ông cười không nói gì nhưng tôi biết ông bùi ngùi, cám cảnh lắm, ông phải nén mọi cảm xúc để giới thiệu và bàn giao lại mọi việc cho Tướng Soạn. Trong lúc ông Phụng và Tướng Soạn bận công việc tôi rủ con gái ông ra khu nhà kính, còn gọi là K9 để chơi, chúng tôi chỉ trao đổi với nhau những câu bâng quơ, rồi lúi húi lượm những hòn sỏi đẹp, sau đó chúng tôi đi ăn trưa. Bữa trưa khá thịnh soạn do cấp dưới chế biến để chiêu đãi hai vị chỉ huy của họ, trong đó ông Phụng là vị chỉ huy trực tiếp, đã từng ăn cùng mâm, cùng gắn bó với họ trong nhiều hoạt động. Ông đã từng cùng họ trong những đêm mưa gió lần mò đi kiểm tra trong rừng hay bên sông Đà về mùa lũ nước réo ầm ầm hung dữ để làm tròn công tác Phòng gian - Bảo mật, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho mật khu. Họ đã từng thót tim khi quân biệt kích Mỹ đang đêm bí mật tập kích đánh phá trại tù Sơn Tây cách đó chỉ ít phút máy bay. Rồi thì những lúc ấm nồng tình đồng đội trong những dịp Tết cổ truyền, trong những ngày liên hoan tưng bừng kỷ niệm lễ thành lập quân đội ngày 22 tháng 12 hằng năm...Hồi ấy những người lính thương yêu nhau còn hơn anh em ruột thịt...Trong ngày hôm ấy tôi thấy ai cũng ngậm ngùi cảm xúc lưu luyến mà họ không nói ra.
Căn phòng của ông Phụng rất nhỏ, thấp và tối, một bóng đèn quả lê đỏ cành cạch treo ở giữa nhà. Phía bên trong là chiếc giường cá nhân, chiếc hòm và một chiếc tủ nhỏ. Phía bên ngoài là một bể nước nhỏ có dẫn nước máy vào trong bể. Trong bể nước ông nuôi mấy con cá rô khá lớn. Thấy tôi ngạc nhiên trước việc nuôi cá, bởi vì với tôi việc nuôi cá trong bể nước chỉ làm cho nước thêm tanh mỗi khi dùng nước ấy rửa mặt, nấu ăn hoặc pha trà. Ông cười bảo:
- Cứ mỗi sáng sớm bố dậy kiểm tra nếu thấy cá chết nghĩa là trong nước máy có kẻ bỏ thuốc độc, sẽ ra lệnh khóa máy và báo động.
Thì ra ông thường xuyên kiểm tra nguồn nước sinh hoạt cho toàn khu Mật cứ, nên trong phòng ông mới có chiếc bể nước lộ thiên kì lạ tưởng như vô lý kia...Ở trên tường, chỗ gần bể nước ông để vài bộ đồ câu quăng để câu cá quả. Lối câu này là sở trường của dân miền chiêm trũng như Nam Định, Hà Nam. Dân ở đây câu quăng rất giỏi, họ bắt nhái làm mồi câu và sau vài giờ đồng hồ là thể nào họ cũng kéo lên được vài ba chú cá quả khỏe mạnh, béo múp. Ông có vài cái cần câu khá dài làm bằng cây trúc luôn được để sẵn trong phòng, một đôi ủng để ông lội rừng cho khỏi gai góc, hoặc lội hẳn xuống đầm để câu. Nhưng cái làm cho tôi thú vị nhất là trên bức tường ở trước mặt ông Phụng dán một loạt những đuôi cá quả rất to. Ông bảo khi nào câu được cá thật to ông hay chặt đuôi để làm kỉ niệm, thịt thì giao cho nhà bếp nấu lên để mấy thầy trò cùng ăn. Sau khi xem xét căn phòng xong chúng tôi quyết định đi câu. Hai cha con luồn theo lối mòn, chui qua bụi rậm còn ướt nước cơn mưa bóng mây vừa thoáng qua để đi câu cá quả. Ông Phụng là tay câu cự phách, thường thì khi đã ra đi là không mấy khi ông chịu về tay không. Lần này do thời gian có hạn vì chúng tôi phải gấp rút trở về Hà Nội nên sau mấy lần quăng mồi không được gì ông thu câu bảo tôi nghỉ tay. Mãi về sau này chúng mới đủ thời gian và điều kiện để đi câu một hôm cho thỏa thích, tôi mới chính thức mục kích tận mắt tài câu của ông Phụng.
Đó là một ngày cuối hè sang thu năm 1982, là ngày mà ông nhận được quyết định chính thức nghỉ hưu sau một thời gian dài nghỉ ở nhà không tham gia công tác trong Bộ Tư lệnh nữa vì lý do sức khỏe. Đây là lần cuối cùng ông Đinh Viết Phụng lên Đá Chông, cùng đi còn có Thiếu tướng Lương Soạn và ái nữ của ông - cô này mãi về sau mới được cha đưa vào đây, sau tôi là đứa trẻ đầu tiên được vào khu mật cứ. Thiếu tướng Lương Soạn mặc quân phục không mang quân hàm, ông Phụng mặc quần sơ vi ốt, áo lụa tơ tằm mầu mỡ gà. Đối với ông Phụng đó là một ngày buồn thương, vì ông phải chia tay với những gì gắn bó với ông gần suốt cuộc đời quân ngũ. Ông cười không nói gì nhưng tôi biết ông bùi ngùi, cám cảnh lắm, ông phải nén mọi cảm xúc để giới thiệu và bàn giao lại mọi việc cho Tướng Soạn. Trong lúc ông Phụng và Tướng Soạn bận công việc tôi rủ con gái ông ra khu nhà kính, còn gọi là K9 để chơi, chúng tôi chỉ trao đổi với nhau những câu bâng quơ, rồi lúi húi lượm những hòn sỏi đẹp, sau đó chúng tôi đi ăn trưa. Bữa trưa khá thịnh soạn do cấp dưới chế biến để chiêu đãi hai vị chỉ huy của họ, trong đó ông Phụng là vị chỉ huy trực tiếp, đã từng ăn cùng mâm, cùng gắn bó với họ trong nhiều hoạt động. Ông đã từng cùng họ trong những đêm mưa gió lần mò đi kiểm tra trong rừng hay bên sông Đà về mùa lũ nước réo ầm ầm hung dữ để làm tròn công tác Phòng gian - Bảo mật, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho mật khu. Họ đã từng thót tim khi quân biệt kích Mỹ đang đêm bí mật tập kích đánh phá trại tù Sơn Tây cách đó chỉ ít phút máy bay. Rồi thì những lúc ấm nồng tình đồng đội trong những dịp Tết cổ truyền, trong những ngày liên hoan tưng bừng kỷ niệm lễ thành lập quân đội ngày 22 tháng 12 hằng năm...Hồi ấy những người lính thương yêu nhau còn hơn anh em ruột thịt...Trong ngày hôm ấy tôi thấy ai cũng ngậm ngùi cảm xúc lưu luyến mà họ không nói ra.
Con gái Tướng Soạn và tôi từng lang thang nhặt sỏi tại đây
Sau
khi hoàn tất mọi công việc chúng tôi đi câu. Chúng tôi vác cần câu ra
đầm nước mé bên trái của khu căn cứ, chúng tôi đứng trên bờ xây lưng về
phí núi Tản Viên mà chọn chỗ đứng cho thuận tiện. Đầm nước hồi ấy hoang
dại chứ chưa được sửa sang, xây dựng khang trang như bây giờ. Hai bên bờ
đầm mọc đầy cây sậy và cỏ dại, dưới mặt nước sâu mầu xanh đen là những
đám rong mọc chen nhau, những đám rêu mầu lục nổi lềnh bềnh trên mặt
nước. Hồ này có lẽ tới hàng trăm năm bỏ hoang không có người đánh cá nên
cá rất nhiều. Tôi trông thấy những con cá quả to như bắp chân người,
rồi những con cá chuối to lớn dài nhẵng bơi từ trong bờ ra giữa đầm.
Nguyên ở đầm này thường có hai loại cá sinh sống là cá quả và cá chuối,
có nơi còn gọi là cá xộp, hay cá chuối xộp. Cá quả nhỏ hơn cá chuối,
toàn thân có những khoang loang lổ màu xanh thẫm, đầu múp, răng nhọn
thịt ăn rất ngon. Đặc biệt nếu ai đã từng được ăn trứng cá quả chắc hẳn
không thể nào quên. Trứng cá quả chỉ rất nhỏ, chia làm hai buồng như hai
trái ớt nằm trong bụng cá. Trứng cá quả tuy ít nhưng ăn rất bùi, béo và
thơm ngậy quyến rũ...Cá chuối to hơn cá quả nhiều, chúng có thân hình
dài nhằng, phía trên lưng phủ một mầu xám tro, dưới bụng mầu trắng nhợt.
Cá chuối có cái mõm rất lớn ngoác ra khi đớp mồi, chúng lại rất phàm ăn
nên dễ hay bị mắc câu của những người đi câu.
Ngày hôm ấy ông Phụng gặp may, cá cắn câu liên tục. Chỉ trong khoảng hơn một tiếng ông câu được mấy con cá quả béo múp, to cỡ bắp chân, thỉnh thoảng câu được những con cá chuối to cỡ cái ca uống nước. Trong ngày hôm ấy tôi tỏ ra là một cần thủ tồi, mặc dù cá cắn câu liên tục nhưng do tôi không biết cách giữ căng dây cước nên cá bỏ mồi ngay. Ông Phụng đứng câu bên cạnh bình tĩnh nhắc tôi nhưng tôi vẫn để sảy, nản chí tôi dừng tay để xem ông câu. Tướng Soạn câu cũng chẳng hơn tôi, suốt cả buổi ông chỉ câu được hai con nhỏ bằng cổ tay người, ông Phụng lấy cá của ông câu được đem biếu Tướng Soạn vài con khá to. Chúng tôi câu cỡ khoảng tiếng rưỡi đồng hồ thì dừng tay, cuốn dây chào từ biệt các sỹ quan trong căn cứ rồi lên xe về Hà Nội. Ông Phụng mang cá về Hà Nội cho bà Phụng bà, bà Phụng bà đương nhiên là thích lắm, vì ngày ấy lương thực thực phẩm khan hiếm, có chút cá tươi thì thật chả khác nào gia đình dùng đại tiệc. Bà Phụng cười tít, lại đưa tay quyệt quyết trầu tỏ vẻ vô cùng mỹ mãn.
Bên cạnh ngôi nhà của ông Phụng, không biết từ bao giờ có một cây nhãn không cao lắm, nhưng chim ri làm tổ nhiều vô kể, lớp lớp chồng chất lên nhau. Do thích nuôi chim nên tôi đã bắt từ nơi đây về một đôi chim ri non đem về Hà Nội nuôi chơi. Ngày ấy, hồi mùa Thu năm 1976 tôi còn ở Phòng Tham mưu với ông Phụng trong Tư lệnh Lăng. Vì chiều con nên ông vào tận Phòng Kỹ thuật để lấy máy khoan và vật liệu để làm lồng cho chim ở, và cái lồng chim được thiết kế theo mẫu nhà rông Tây Nguyên. Nguyên cái lồng được thiết kế theo kiểu nhà rông Tây Nguyên là do tôi thường được đi theo ông Phụng tham quan Viện Bảo tàng Mỹ thuật, và đã rất kết kiểu nhà mái cao của những người dân tộc vùng rừng núi Tây Nguyên nên mới dẫn tới quyết định này.
Đôi chim này được săn sóc rất cẩn thận bằng cơm nguội, gạo hạt và đôi khi bằng cào cào châu chấu non nữa. Thi thoảng tôi dùng mẹo cho thêm chút muối vào đồ ăn làm cho chim lâu ngày thành nghiện, có thả ra chúng cũng không dám bay xa mà chỉ quanh quẩn gần nhà, gọi là chim quen nhà vậy. Sau này, trong một ngày mưa gió lạnh lẽo, lồng chim treo ở mái hiên bị bỏ quên không được đưa vào làm một con đã sớm lìa đời. Con chim khác sau mấy ngày ủ rũ cũng chết nốt, tôi tiếc hùi hụi, mà chỉ biết nhìn lồng chim thở vắn than dài. Chuyện không nói đến nữa...
Liên tục trong những năm 1977 - 1978 tôi hay được ông Phụng đưa lên chơi ở khu mật cứ Đá Chông. Có lần vào một buổi chiều sau khi đã song công việc ông Phụng mặc quân phục, đi ủng cao phòng rắn cắn, gai cào đưa tôi ra sau khu nhà sàn để chỉ cho tôi xem một đoạn dường hầm. Đường hầm này hình chữ u được đổ bằng bê tông rất dầy, chạy dài khoảng chục mét rồi mất hút dưới lòng đất. Tôi đứng ngu ngơ giữa rừng cây im ắng, giữa một khoảng đất trống dầu dãi nắng mưa mà hoài cảm. Tôi chỉ nghĩ rằng đây là một căn hầm để tránh những cái gì đó ghê gớm lắm chứ hồi đó tôi không hề hay biết gì về sự hiện diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị ở nơi đây. Thì ra trên mặt đất cằn cỗi mọc đầy cỏ dại, bên căn hầm màu xám tro trần trụi tưởng như vô cảm kia là cả một giai đoạn lịch sử sống động đã qua đi. Sau này, khi lớn lên tôi mới mường tượng lại cảnh Hồ chủ tịch cùng các vị lãnh đạo tối cao từng đến nơi này để xem xét, để đề ra các phương án rút lui khi có sự biến xảy ra như Không quân Mỹ oanh tạc, hay biệt kích bất ngờ tiến công...Tiếc thay ông Phụng đã mất nên tôi không kịp hỏi ông tỉ mỉ về căn hầm này, ví dụ như hầm này rộng bao nhiêu, đi xuyên tới đâu, các phương tiện làm việc khi Hồ chủ tịch và Bộ Chính trị trong tình huống xấu phải sống và làm việc dưới hầm ra sao và v.v. Sau này một vài lần thơ thẩn chơi một mình tôi đã thử đi vào hầm song vì sợ rắn nên lại thôi. Tôi đành bỏ ý định khảo cứu căn hầm vì biết đâu dăm chú hổ mang bành do tránh mưa tránh nắng bò vào trong kia, thấy tôi mò vào chúng tưởng kẻ phá rối, đợp cho tôi một phát thì xong đời. Mà cái đất Hà Tây này phần vì điều kiện sống thuận lợi, phần vì do là khu vực bảo vệ nghiêm ngặt, cấm người ra vào săn bắn nên giống hổ mang chúa sinh sống rất nhiều. Thấy tôi đứng ngu ngơ mãi mà ngó nghiêng lung tung chứ không hiếu động chạy nhảy như mọi khi nên ông Phụng tưởng tôi chán. Ông dẫn tôi ra khu rừng phía sau mà chỉ cho tôi xem cây quế. Tôi reo lên kinh ngạc và thích thú vì lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy cây quế. Ngày ấy lũ học sinh cấp một như tôi thường hay lân la ra chợ Ngọc Hà để mua quế ăn. Chúng tôi thường mua hai xu, năm xu hay một hào vỏ quế khô bỏ túi quần để thỉnh thoảng đưa ra nhấm nháp. Phải nói rằng vào những ngày mùa đông gió rét căm căm mà có tí quế nhấm nháp thì thú thật. Người ăn quế cơ thể sẽ ấm lên dễ chịu, miệng lại có cảm giác cay cay, ngòn ngọn, nóng nóng rất thú vị. Cây quế là một loại cây đẹp. Thân quế không to lắm nhưng tròn và thẳng với những chiếc lá trông từa tựa lá sấu nhưng rất xanh, rất bóng, rất ròn khi vò và có vị thơm dễ chịu. Trước đây ông Phụng cũng từng thử ươm quế ở quê Nam Định nhưng không thành công. Cây quế chỉ ưa khí hậu và đất đai vùng cao, ở đồng bằng cây không phát triển được mà chỉ tồn tại một thời gian ngắn rồi chết. Trước khi về Hà Nội ông Phụng còn bảo một chú đẽo cho tôi ít vỏ quế đem về. Hôm sau tôi mang đến lớp để khoe, không quên phịa thêm cảnh mình đến thăm cả một rừng quế, các bạn cùng lớp lác cả mắt, tin sái cổ. Các bạn không lác mắt, không sái cổ sao được khi trong tay tôi cầm mảnh vỏ quế tươi còn xanh mầu lục làm bằng chứng rằng tôi đã đến thăm rừng quế, đã tự tay dùng dao lóc những mảnh vỏ vừa dài vừa to để đem về chia chác? Cũng phải nói thêm rằng quế tươi ăn nóng, thơm và ngọt hơn quế khô nhiều.
Rồi có lần một chú dẫn tôi đi lấy quả trám. Trước đây tôi đã từng tới quả trám qua bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu có câu:
Ngày hôm ấy ông Phụng gặp may, cá cắn câu liên tục. Chỉ trong khoảng hơn một tiếng ông câu được mấy con cá quả béo múp, to cỡ bắp chân, thỉnh thoảng câu được những con cá chuối to cỡ cái ca uống nước. Trong ngày hôm ấy tôi tỏ ra là một cần thủ tồi, mặc dù cá cắn câu liên tục nhưng do tôi không biết cách giữ căng dây cước nên cá bỏ mồi ngay. Ông Phụng đứng câu bên cạnh bình tĩnh nhắc tôi nhưng tôi vẫn để sảy, nản chí tôi dừng tay để xem ông câu. Tướng Soạn câu cũng chẳng hơn tôi, suốt cả buổi ông chỉ câu được hai con nhỏ bằng cổ tay người, ông Phụng lấy cá của ông câu được đem biếu Tướng Soạn vài con khá to. Chúng tôi câu cỡ khoảng tiếng rưỡi đồng hồ thì dừng tay, cuốn dây chào từ biệt các sỹ quan trong căn cứ rồi lên xe về Hà Nội. Ông Phụng mang cá về Hà Nội cho bà Phụng bà, bà Phụng bà đương nhiên là thích lắm, vì ngày ấy lương thực thực phẩm khan hiếm, có chút cá tươi thì thật chả khác nào gia đình dùng đại tiệc. Bà Phụng cười tít, lại đưa tay quyệt quyết trầu tỏ vẻ vô cùng mỹ mãn.
Bên cạnh ngôi nhà của ông Phụng, không biết từ bao giờ có một cây nhãn không cao lắm, nhưng chim ri làm tổ nhiều vô kể, lớp lớp chồng chất lên nhau. Do thích nuôi chim nên tôi đã bắt từ nơi đây về một đôi chim ri non đem về Hà Nội nuôi chơi. Ngày ấy, hồi mùa Thu năm 1976 tôi còn ở Phòng Tham mưu với ông Phụng trong Tư lệnh Lăng. Vì chiều con nên ông vào tận Phòng Kỹ thuật để lấy máy khoan và vật liệu để làm lồng cho chim ở, và cái lồng chim được thiết kế theo mẫu nhà rông Tây Nguyên. Nguyên cái lồng được thiết kế theo kiểu nhà rông Tây Nguyên là do tôi thường được đi theo ông Phụng tham quan Viện Bảo tàng Mỹ thuật, và đã rất kết kiểu nhà mái cao của những người dân tộc vùng rừng núi Tây Nguyên nên mới dẫn tới quyết định này.
Đôi chim này được săn sóc rất cẩn thận bằng cơm nguội, gạo hạt và đôi khi bằng cào cào châu chấu non nữa. Thi thoảng tôi dùng mẹo cho thêm chút muối vào đồ ăn làm cho chim lâu ngày thành nghiện, có thả ra chúng cũng không dám bay xa mà chỉ quanh quẩn gần nhà, gọi là chim quen nhà vậy. Sau này, trong một ngày mưa gió lạnh lẽo, lồng chim treo ở mái hiên bị bỏ quên không được đưa vào làm một con đã sớm lìa đời. Con chim khác sau mấy ngày ủ rũ cũng chết nốt, tôi tiếc hùi hụi, mà chỉ biết nhìn lồng chim thở vắn than dài. Chuyện không nói đến nữa...
Liên tục trong những năm 1977 - 1978 tôi hay được ông Phụng đưa lên chơi ở khu mật cứ Đá Chông. Có lần vào một buổi chiều sau khi đã song công việc ông Phụng mặc quân phục, đi ủng cao phòng rắn cắn, gai cào đưa tôi ra sau khu nhà sàn để chỉ cho tôi xem một đoạn dường hầm. Đường hầm này hình chữ u được đổ bằng bê tông rất dầy, chạy dài khoảng chục mét rồi mất hút dưới lòng đất. Tôi đứng ngu ngơ giữa rừng cây im ắng, giữa một khoảng đất trống dầu dãi nắng mưa mà hoài cảm. Tôi chỉ nghĩ rằng đây là một căn hầm để tránh những cái gì đó ghê gớm lắm chứ hồi đó tôi không hề hay biết gì về sự hiện diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị ở nơi đây. Thì ra trên mặt đất cằn cỗi mọc đầy cỏ dại, bên căn hầm màu xám tro trần trụi tưởng như vô cảm kia là cả một giai đoạn lịch sử sống động đã qua đi. Sau này, khi lớn lên tôi mới mường tượng lại cảnh Hồ chủ tịch cùng các vị lãnh đạo tối cao từng đến nơi này để xem xét, để đề ra các phương án rút lui khi có sự biến xảy ra như Không quân Mỹ oanh tạc, hay biệt kích bất ngờ tiến công...Tiếc thay ông Phụng đã mất nên tôi không kịp hỏi ông tỉ mỉ về căn hầm này, ví dụ như hầm này rộng bao nhiêu, đi xuyên tới đâu, các phương tiện làm việc khi Hồ chủ tịch và Bộ Chính trị trong tình huống xấu phải sống và làm việc dưới hầm ra sao và v.v. Sau này một vài lần thơ thẩn chơi một mình tôi đã thử đi vào hầm song vì sợ rắn nên lại thôi. Tôi đành bỏ ý định khảo cứu căn hầm vì biết đâu dăm chú hổ mang bành do tránh mưa tránh nắng bò vào trong kia, thấy tôi mò vào chúng tưởng kẻ phá rối, đợp cho tôi một phát thì xong đời. Mà cái đất Hà Tây này phần vì điều kiện sống thuận lợi, phần vì do là khu vực bảo vệ nghiêm ngặt, cấm người ra vào săn bắn nên giống hổ mang chúa sinh sống rất nhiều. Thấy tôi đứng ngu ngơ mãi mà ngó nghiêng lung tung chứ không hiếu động chạy nhảy như mọi khi nên ông Phụng tưởng tôi chán. Ông dẫn tôi ra khu rừng phía sau mà chỉ cho tôi xem cây quế. Tôi reo lên kinh ngạc và thích thú vì lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy cây quế. Ngày ấy lũ học sinh cấp một như tôi thường hay lân la ra chợ Ngọc Hà để mua quế ăn. Chúng tôi thường mua hai xu, năm xu hay một hào vỏ quế khô bỏ túi quần để thỉnh thoảng đưa ra nhấm nháp. Phải nói rằng vào những ngày mùa đông gió rét căm căm mà có tí quế nhấm nháp thì thú thật. Người ăn quế cơ thể sẽ ấm lên dễ chịu, miệng lại có cảm giác cay cay, ngòn ngọn, nóng nóng rất thú vị. Cây quế là một loại cây đẹp. Thân quế không to lắm nhưng tròn và thẳng với những chiếc lá trông từa tựa lá sấu nhưng rất xanh, rất bóng, rất ròn khi vò và có vị thơm dễ chịu. Trước đây ông Phụng cũng từng thử ươm quế ở quê Nam Định nhưng không thành công. Cây quế chỉ ưa khí hậu và đất đai vùng cao, ở đồng bằng cây không phát triển được mà chỉ tồn tại một thời gian ngắn rồi chết. Trước khi về Hà Nội ông Phụng còn bảo một chú đẽo cho tôi ít vỏ quế đem về. Hôm sau tôi mang đến lớp để khoe, không quên phịa thêm cảnh mình đến thăm cả một rừng quế, các bạn cùng lớp lác cả mắt, tin sái cổ. Các bạn không lác mắt, không sái cổ sao được khi trong tay tôi cầm mảnh vỏ quế tươi còn xanh mầu lục làm bằng chứng rằng tôi đã đến thăm rừng quế, đã tự tay dùng dao lóc những mảnh vỏ vừa dài vừa to để đem về chia chác? Cũng phải nói thêm rằng quế tươi ăn nóng, thơm và ngọt hơn quế khô nhiều.
Rồi có lần một chú dẫn tôi đi lấy quả trám. Trước đây tôi đã từng tới quả trám qua bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu có câu:
...Mình về, rừng núi nhớ ai
trám bùi đẻ rụng, măng mai để già...
trám bùi đẻ rụng, măng mai để già...
Tôi
đi theo chú sĩ quan kia ra chỗ gần đầm nước, nơi có cây trám mọc. Tôi
ngẩng mặt lên ngắm cây trám mà lòng thích thú vô hạn. Cũng như cây quế,
cây trám không to lắm, không hoành tránh như cây đa, cây gạo mà trông
rất bình dị. Chúng tôi ra sức dùng tay rung cây làm cho hàng tá quả lìa
khỏi cuống rơi lộp bộp xuống cỏ. Tôi nhặt đầy một rổ những quả trám mầu
thâm đen hình bầu dục mang về Hà Nội cho bà Phụng bà kho cá. Qủa trám
khi kho với cá có tác dụng khử mùi tanh của cá. Khi quả trám ngấm mắm
muối ăn có vị mằn mặn, bùi bùi, chan chát khá lạ miệng cách bình dị dễ
gần, khó quên. Lúc buổi trưa tôi từng một mình lang thang ra gốc cây
trám chơi, định bụng dùng đá hoặc cành củi khô ném cho trám rụng để ăn
thì trên đường đi tôi gặp phải rắn. Con rắn này có lẽ mới nở từ trứng
rắn ra nên chỉ bé như chiếc đũa. Toàn thân con rắn mầu nâu với những
chiếc sọc mầu sáng chạy khắp thân từ cổ cho đến đuôi. Con rắn này bò
chậm chạp, len lỏi cách vô hại giữa những bụi cỏ tranh mọc rậm rịt trên
mặt đất. Tôi ngán ngẩm ngắm con rắn một lát rồi trở về, không dám chủ
quan khinh xuất, dù rằng trong tay tôi đang cầm khẩu súng cao su với
những viên sỏi để làm đạn. Tôi biết rằng ở cự li gần, với một phát đạn
sỏi là tôi đã có thể hạ gục con rắn nhỏ, chậm chạp kia. Nhưng đấy là
trường hợp tôi thật sự bình tĩnh để bắn trúng đích, còn nếu trượt thì
sao? Ai bảo đảm rằng con rắn kia khi bị chọc tức sẽ không phùng mang,
trợn mắt quăng mình lên cao, nhằm vào tôi mà mổ một phát rồi tiêm vào cơ
thể tôi một lượng nọc độc đáng kể mà kẻ bị hạ gục sẽ là tôi? Nghĩ thế
nên tôi đành chào thua. Tôi bỏ về mặc cho con rắn nhỏ muốn đi đâu thì
đi, làm cái gì chúng thích thì làm, cẩn thận vẫn hơn, tránh voi chả xấu
mặt nào. Sau này tôi có kể chuyện gặp rắn cho ông Phụng nghe, ông Phụng
bảo có lẽ đấy là giống rắn sọc dưa, rắn này không độc, rất hiền. Bà Cao
thị Xanh cũng từng kể rằng đã có nhiều người dân Nam Định cho rắn sọc
dưa sống chung với người trong nhà để bắt chuột thay mèo. Rắn sọc dưa là
giống rắn đáng yêu, hiền lành, vô hại nhưng lại là khắc tinh đối với
những giống chuột. Nhiều người tin rằng rắn có khả năng thôi miên làm
cho những con chuột tinh quái trở nên ngờ nghệch, để cho rắn ta cứ việc
đường hoàng tới gần xơi tái mà không hề có một phản ứng tự vệ hay chạy
trốn nào. Nhà nào có rắn sọc dưa sống chung kể như yên tâm khỏi lo chuột
bọ rích rích quấy phá, cắn thủng quần áo chăn màn, hòm thóc, tải ngô,
mà nhiều khi chúng còn liều lĩnh cắn cả chân người.
Buổi chiều hôm ấy ông Phụng dẫn tôi vào một dãy nhà khá lớn trước đây dành cho những Uỷ viên Bộ Chính trị ở khi lên Đá Chông làm việc. Trước khu nhà này là khoảng sân trống trơn, chỉ lác đác có vài ngọn cỏ hiếm hoi nhô lên trên mặt đất dầu dãi nắng mưa trước bốn bề vắng vẻ quạnh hiu. Ông Phụng dẫn tôi vào nhà, mở tấm màn che ra cho tôi xem hai khẩu súng săn để trên một chiếc bàn bằng gỗ quý có những chiếc chân bàn chạm hình chân hổ. Trên bàn ấy, dựa vào tường là hai khẩu súng săn được lau chùi rất cẩn thận ánh lên nước thép xanh đen với báng súng bằng gỗ bóng nhoáng. Một khẩu súng được chạm trổ tinh vi, có lẽ suốt cả cuộc đời tôi chưa thấy khẩu súng săn nào được chạm trổ đẹp thế bao giờ. Khẩu súng ấy bằng gỗ quý mầu vàng, được chạm trổ những họa tiết tinh vi và đánh véc ni bóng loáng trông rất ngoạn mục. Bên cạnh là một khẩu súng khác có hai nòng, trông đơn giản hơn khẩu kia rất nhiều với chiếc báng mầu nâu sẫm. Ông Phụng bảo:
- Súng của Bác Hồ đấy! Khẩu này là do Trung Quốc tặng (ông chỉ vào khẩu súng được chạm trổ tinh vi), còn khẩu kia là Liên Xô tặng (ông chỉ vào khẩuhai nòng).
Tôi đứng lặng yên mà nhìn ngắm những kỷ vật của Chủ tịch Hồ chí Minh, vị Lãnh tụ tài ba mà tiếng tăm của ông từng lừng lẫy suốt năm châu bốn biển, với những kiến thức uyên thâm của bậc vĩ nhân nổi tiếng thế giới qua suốt mấy thập kỉ qua.
Khi hồi tượng lại cảnh xưa, và lúc viết lại những dòng hồi ký này tôi lạ lấy làm tiếc mà giận mình không kể xiết. Tôi đã mải chơi, quá mức thờ ơ lãnh đạm mà quên không hỏi ông Phụng xem sinh thời Chủ tịch Hồ chí Minh sinh hoạt ở đây thế nào. Rồi còn một bí mật quan trọng nữa là sau khi trải qua quá trình phẫu thuật ướp xác thì tạng phủ của Chủ tịch Hồ chí Minh được chôn giấu chính xác nơi đâu. Nếu biết được điều đó thì có lẽ sau này khi có điều kiện thăm lại chốn xưa tôi sẽ thắp một nén nhang thay cho ông Đinh viết Phụng, mà cầu cho Chủ tịch Hồ chí Minh đặng yên nghỉ nơi suối vàng.
Tôi không cũng rất tiếc khi không tò mò xem xét xem còn có những đồ vật gì còn cất nơi đó, điều đó cũng thật là một sự thiếu xót lớn lao. Qua những lần tham quan hiếm hoi này tôi đoán mò rằng Chủ tịch Hồ chí Minh thường hay xử dụng thời gian rảnh rỗi sau giờ làm việc cho việc đi săn và câu cá. Có lẽ Chủ tịch thường cùng những người bảo vệ đi câu nơi hai đầm nước quanh khu mật cứ, bên bờ sông Đà hay là đi săn gà rừng quanh những cánh rừng. Về gà rừng thì ở Đá Chông hồi ấy rất sẵn vì là khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt. Ông Phụng kẻ rằng ông thường nuôi một vài con gà mái để dụ gà trống rừng về, có nhiều lần gà mái rừng dẫn cả đàn con về theo. Thỉnh thoảng những chú sỹ quan giỏi săn bắt người dân tộc thiểu số lại trổ tài đánh bẫy để bắt gà rừng cải thiện. Ông còn kể khu Đá Chông hồi ấy có rất nhiều chim cu xanh, và chim cút. Ông Phụng nói thịt gà rừng và các giống chim ấy ăn rất ngon. Có lần vào khoảng đầu đông năm 1979 có một chú khi đi công tác nơi mật cứ có mang về cho tôi con chim cút bắt từ nơi ấy. Tôi thích mê đi vì con chim béo tròn có chiếc đuôi ngắn ngủn và chiếc đầu phủ lông có ánh xanh biếc trông rất đẹp mắt. Mọi người xui tôi mổ thịt con chim để nấu miến mà ăn vì thịt chim cút ăn rất ngon. Ông Phụng và tôi gạt đi bảo để nuôi cho vui nhà chứ ai lại đi ăn thịt con chim đẹp như thế bao giờ. Tôi đem nhốt chim vào chiếc bãy chuột bằng lưới mắt cáo, không dám để trong lồng bằng tre vì sợ mèo hoang hoặc chuột đang đêm mò vào xơi mất, thỉnh thoảng tôi lại mang chim ra ngắm không biết chán mắt. Tôi nuôi chim bằng cơm nguội, khoai lang, cám gà và các loại côn trùng khác, nói chung là bằng tất cả những gì mà tôi có. Nhưng chú cút này không quen sống trong cảnh lao tù nên đã bỏ ăn, chú ta cứ chạy quanh rồi thỉnh thoảng lại húc đầu vào hàng rào mắt cáo tìm đường đào tẩu tới mức rụng cả lông, tróc cả da đầu rồi chết. Tôi tiếc chim quá, đứt cả ruột mà cuối cùng đành mang xác con chim khốn khổ kia ra bãi rác vứt, tiếc hùi hụi.
Ở rừng Đá Chông hồi ấy ngoài các giống chim, thú còn có kỳ đà. Hồi ông Phụng mới ra ở nhà tại Trạm 354, tôi có đượcmột chú kể cho nghe những câu chuyện hấp dẫn về giống kỳ đà. Chú này tên là Khuông, người thấp đậm quê miền biển Thanh Hóa. Tôi nhớ vào những năm 1978 - 1979 gì đấy chú đã nghỉ phục viên, thỉnh thoảng ra Hà Nội chơi, lĩnh các chế độ của quân nhân và thường ở nhà ông Phụng. Chú có dáng người chắc nịch, giọng nói oang oang, tính tình cởi mở chất phác của dân miền biển. Khi ra nhà tôi chú thường mang theo mắm tôm, tôm khô, cá thu làm quà. Mắm tôm hồi chú biếu nhà tôi là mắm tự làm để dùng dần nên rất ngon. Mắm khá đặc, được chế biến công phu bằng nhiều ra vị trong đó có dứa và ớt tươi. Mắm ăn rất ngon ngọt và thơm, làm tôi không thể quên được hương vị đặc biệt của nó dù đã hơn ba mươi năm trôi qua. Chú hay mua cá về nấu riêu ăn với rau sống gồm xà lách, rau muống chẻ, dưa chuột thái lát, hoa chuối tươi thái mỏng cùng vài vị kinh giới, rau ngổ v.v không quên kèm theo chai rượu "quốc lủi" với mấy trái ớt đỏ chót. Đôi khi hứng lên chú còn ra chợ Ngọc Hà gần đấy để xách bịch thịt chó luộc gói trong lá lá dong tươi. Chú cười noí oang oang, chú dậy tôi ăn ớt, thứ mà trước đây mới nghe nói đến tôi đã thấy sợ. Chú cầm cả quả ớt lên cắn một nhát rõ to nhai rau ráu làm cho tôi vô cùng kính nể bản lĩnh ăn cay của đồng bào miền Trung. Sau này khi đi học ở Trường Cơ yếu đóng ở Phủ Lý tôi có lần mục sở thị nhu cầu ăn ớt kinh hoàng của họ. Trong Đại đội tôi có tay lính Bình - Trị - Thiên có tài cứ mỗi một miếng cơm lại cắn nửa quả ớt thóc, là loại ớt cay khủng khiếp nhất trong họ hàng nhà ớt. Chú Khuông kể cho tôi nghe chuyện săn kỳ đà trên Đá Chông cho tôi nghe làm tôi thích mê đi. Chú nói trong một lần đi kiểm tra trên rừng Đá Chông chú bắt gặp một anh kì đà rất lớn. Khi gặp chú, anh kì đà không những không tìm đường chạy trốn mà còn hiên ngang đứng lại mà ngoác cái mõm với chiếc lưỡi dài đen sì và hàm răng nhọn sắc ra mà đe dọa. Nếu là thường dân thì chắc đã phải rùng mình sởn tóc gáy trước bộ dạng dữ dằn của giống vật nửa rắn, nửa rồng kia, nhưng với chú Khuông thì ngược lại. Chú không dùng tay không để bắt kì đà mà chú dùng dầy để đá. Nguyên giống kì đà tuy không có nọc độc như rắn nhưng do chúng hay ăn tạp, lại ăn cả xác chết động vật nên trong răng và nước dãi chúng có chứa vi trùng uốn ván cực kì nguy hiểm. Ai vô tình bị chúng ngoạm phải rất dễ bị nhiễm trùng, lên cơn co giật, cơ thể bị uốn cong lên rồi chết cách đau đớn khủng khiếp. Kì đà thường dài khoảng 3 mét, nặng cỡ chục cân nên khi chiến đấu tay đôi với người thì thường thất bại. Chú Khuông nói hôm hạ được kì đà, cả đơn vị được chén bữa liên hoan no say vì thịt kì đà trắng và rất thơm ngon.
Buổi chiều hôm ấy ông Phụng dẫn tôi vào một dãy nhà khá lớn trước đây dành cho những Uỷ viên Bộ Chính trị ở khi lên Đá Chông làm việc. Trước khu nhà này là khoảng sân trống trơn, chỉ lác đác có vài ngọn cỏ hiếm hoi nhô lên trên mặt đất dầu dãi nắng mưa trước bốn bề vắng vẻ quạnh hiu. Ông Phụng dẫn tôi vào nhà, mở tấm màn che ra cho tôi xem hai khẩu súng săn để trên một chiếc bàn bằng gỗ quý có những chiếc chân bàn chạm hình chân hổ. Trên bàn ấy, dựa vào tường là hai khẩu súng săn được lau chùi rất cẩn thận ánh lên nước thép xanh đen với báng súng bằng gỗ bóng nhoáng. Một khẩu súng được chạm trổ tinh vi, có lẽ suốt cả cuộc đời tôi chưa thấy khẩu súng săn nào được chạm trổ đẹp thế bao giờ. Khẩu súng ấy bằng gỗ quý mầu vàng, được chạm trổ những họa tiết tinh vi và đánh véc ni bóng loáng trông rất ngoạn mục. Bên cạnh là một khẩu súng khác có hai nòng, trông đơn giản hơn khẩu kia rất nhiều với chiếc báng mầu nâu sẫm. Ông Phụng bảo:
- Súng của Bác Hồ đấy! Khẩu này là do Trung Quốc tặng (ông chỉ vào khẩu súng được chạm trổ tinh vi), còn khẩu kia là Liên Xô tặng (ông chỉ vào khẩuhai nòng).
Tôi đứng lặng yên mà nhìn ngắm những kỷ vật của Chủ tịch Hồ chí Minh, vị Lãnh tụ tài ba mà tiếng tăm của ông từng lừng lẫy suốt năm châu bốn biển, với những kiến thức uyên thâm của bậc vĩ nhân nổi tiếng thế giới qua suốt mấy thập kỉ qua.
Khi hồi tượng lại cảnh xưa, và lúc viết lại những dòng hồi ký này tôi lạ lấy làm tiếc mà giận mình không kể xiết. Tôi đã mải chơi, quá mức thờ ơ lãnh đạm mà quên không hỏi ông Phụng xem sinh thời Chủ tịch Hồ chí Minh sinh hoạt ở đây thế nào. Rồi còn một bí mật quan trọng nữa là sau khi trải qua quá trình phẫu thuật ướp xác thì tạng phủ của Chủ tịch Hồ chí Minh được chôn giấu chính xác nơi đâu. Nếu biết được điều đó thì có lẽ sau này khi có điều kiện thăm lại chốn xưa tôi sẽ thắp một nén nhang thay cho ông Đinh viết Phụng, mà cầu cho Chủ tịch Hồ chí Minh đặng yên nghỉ nơi suối vàng.
Tôi không cũng rất tiếc khi không tò mò xem xét xem còn có những đồ vật gì còn cất nơi đó, điều đó cũng thật là một sự thiếu xót lớn lao. Qua những lần tham quan hiếm hoi này tôi đoán mò rằng Chủ tịch Hồ chí Minh thường hay xử dụng thời gian rảnh rỗi sau giờ làm việc cho việc đi săn và câu cá. Có lẽ Chủ tịch thường cùng những người bảo vệ đi câu nơi hai đầm nước quanh khu mật cứ, bên bờ sông Đà hay là đi săn gà rừng quanh những cánh rừng. Về gà rừng thì ở Đá Chông hồi ấy rất sẵn vì là khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt. Ông Phụng kẻ rằng ông thường nuôi một vài con gà mái để dụ gà trống rừng về, có nhiều lần gà mái rừng dẫn cả đàn con về theo. Thỉnh thoảng những chú sỹ quan giỏi săn bắt người dân tộc thiểu số lại trổ tài đánh bẫy để bắt gà rừng cải thiện. Ông còn kể khu Đá Chông hồi ấy có rất nhiều chim cu xanh, và chim cút. Ông Phụng nói thịt gà rừng và các giống chim ấy ăn rất ngon. Có lần vào khoảng đầu đông năm 1979 có một chú khi đi công tác nơi mật cứ có mang về cho tôi con chim cút bắt từ nơi ấy. Tôi thích mê đi vì con chim béo tròn có chiếc đuôi ngắn ngủn và chiếc đầu phủ lông có ánh xanh biếc trông rất đẹp mắt. Mọi người xui tôi mổ thịt con chim để nấu miến mà ăn vì thịt chim cút ăn rất ngon. Ông Phụng và tôi gạt đi bảo để nuôi cho vui nhà chứ ai lại đi ăn thịt con chim đẹp như thế bao giờ. Tôi đem nhốt chim vào chiếc bãy chuột bằng lưới mắt cáo, không dám để trong lồng bằng tre vì sợ mèo hoang hoặc chuột đang đêm mò vào xơi mất, thỉnh thoảng tôi lại mang chim ra ngắm không biết chán mắt. Tôi nuôi chim bằng cơm nguội, khoai lang, cám gà và các loại côn trùng khác, nói chung là bằng tất cả những gì mà tôi có. Nhưng chú cút này không quen sống trong cảnh lao tù nên đã bỏ ăn, chú ta cứ chạy quanh rồi thỉnh thoảng lại húc đầu vào hàng rào mắt cáo tìm đường đào tẩu tới mức rụng cả lông, tróc cả da đầu rồi chết. Tôi tiếc chim quá, đứt cả ruột mà cuối cùng đành mang xác con chim khốn khổ kia ra bãi rác vứt, tiếc hùi hụi.
Ở rừng Đá Chông hồi ấy ngoài các giống chim, thú còn có kỳ đà. Hồi ông Phụng mới ra ở nhà tại Trạm 354, tôi có đượcmột chú kể cho nghe những câu chuyện hấp dẫn về giống kỳ đà. Chú này tên là Khuông, người thấp đậm quê miền biển Thanh Hóa. Tôi nhớ vào những năm 1978 - 1979 gì đấy chú đã nghỉ phục viên, thỉnh thoảng ra Hà Nội chơi, lĩnh các chế độ của quân nhân và thường ở nhà ông Phụng. Chú có dáng người chắc nịch, giọng nói oang oang, tính tình cởi mở chất phác của dân miền biển. Khi ra nhà tôi chú thường mang theo mắm tôm, tôm khô, cá thu làm quà. Mắm tôm hồi chú biếu nhà tôi là mắm tự làm để dùng dần nên rất ngon. Mắm khá đặc, được chế biến công phu bằng nhiều ra vị trong đó có dứa và ớt tươi. Mắm ăn rất ngon ngọt và thơm, làm tôi không thể quên được hương vị đặc biệt của nó dù đã hơn ba mươi năm trôi qua. Chú hay mua cá về nấu riêu ăn với rau sống gồm xà lách, rau muống chẻ, dưa chuột thái lát, hoa chuối tươi thái mỏng cùng vài vị kinh giới, rau ngổ v.v không quên kèm theo chai rượu "quốc lủi" với mấy trái ớt đỏ chót. Đôi khi hứng lên chú còn ra chợ Ngọc Hà gần đấy để xách bịch thịt chó luộc gói trong lá lá dong tươi. Chú cười noí oang oang, chú dậy tôi ăn ớt, thứ mà trước đây mới nghe nói đến tôi đã thấy sợ. Chú cầm cả quả ớt lên cắn một nhát rõ to nhai rau ráu làm cho tôi vô cùng kính nể bản lĩnh ăn cay của đồng bào miền Trung. Sau này khi đi học ở Trường Cơ yếu đóng ở Phủ Lý tôi có lần mục sở thị nhu cầu ăn ớt kinh hoàng của họ. Trong Đại đội tôi có tay lính Bình - Trị - Thiên có tài cứ mỗi một miếng cơm lại cắn nửa quả ớt thóc, là loại ớt cay khủng khiếp nhất trong họ hàng nhà ớt. Chú Khuông kể cho tôi nghe chuyện săn kỳ đà trên Đá Chông cho tôi nghe làm tôi thích mê đi. Chú nói trong một lần đi kiểm tra trên rừng Đá Chông chú bắt gặp một anh kì đà rất lớn. Khi gặp chú, anh kì đà không những không tìm đường chạy trốn mà còn hiên ngang đứng lại mà ngoác cái mõm với chiếc lưỡi dài đen sì và hàm răng nhọn sắc ra mà đe dọa. Nếu là thường dân thì chắc đã phải rùng mình sởn tóc gáy trước bộ dạng dữ dằn của giống vật nửa rắn, nửa rồng kia, nhưng với chú Khuông thì ngược lại. Chú không dùng tay không để bắt kì đà mà chú dùng dầy để đá. Nguyên giống kì đà tuy không có nọc độc như rắn nhưng do chúng hay ăn tạp, lại ăn cả xác chết động vật nên trong răng và nước dãi chúng có chứa vi trùng uốn ván cực kì nguy hiểm. Ai vô tình bị chúng ngoạm phải rất dễ bị nhiễm trùng, lên cơn co giật, cơ thể bị uốn cong lên rồi chết cách đau đớn khủng khiếp. Kì đà thường dài khoảng 3 mét, nặng cỡ chục cân nên khi chiến đấu tay đôi với người thì thường thất bại. Chú Khuông nói hôm hạ được kì đà, cả đơn vị được chén bữa liên hoan no say vì thịt kì đà trắng và rất thơm ngon.
Có lần vào những năm 1978, ông Phụng còn dẫn tôi ra cây sim đang vào mùa quả chín để hái sim. Trước đây tôi đã từng nhiều lần nghe tên hoa sim qua những bài thơ, những bài hát, những đoạn văn mà chưa một lần được thấy tạn mắt. Thực tế ở Nam Định thỉnh thoảng có câu hoa mua do chim mang theo hạt từ nơi rừng núi về. Những cây thường rất nhỏ, chỉ cao độ chừng hai mưoi phân và trổ một bông hoa năm cánh mầu tím giản dị. Cây sim trên Đá Chông nom rất giống cây mua nhưng to hơn nhiều và cho rất nhiều quả. Cây này có những cành to như bắp chân người lớn xòe ra bốn phía nhưng không cao lắm. Ông Phụng cho tôi mượn khăn mùi xoa ông hay bỏ túi quần. Tôi dùng khăn mùi xoa ấy buộc túm lại thành một chiếc túi nhỏ rồi ra sức hái sim bỏ đầy tíu. Tôi còn ra công bỏ áo vào trong quần để hái sim nhét vào trong người vì một chiếc khăn mùi xoa không chứa được hết số quả mà tôi đã hái. Quả sim nhỏ như ngón tay út người lớn, khi chín có mầu tím đen, bên trong có chứa rất nhiều hạt nhỏ li ti. Sim chín ăn hơi ngòn ngọt, chan chát bình dị. Tôi mang về Hà Nội để làm quà cho bác Hồ Pha, bác này mắt sáng lên ăn sao mà nhanh thế. Tôi mới đi chơi một lúc, hình như ra máy nước để rửa chân tay về hỏi đã thấy chẳng còn quả nào.
------------------
Mùa
Hè năm 1976, tôi ở với ông Phụng tại Phòng tham mưu Bộ tư lệnh đóng sát
Phủ chủ tịch tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội. Dãy nhà của cơ quan
Tham mưu do ông Đinh Viết Phụng lãnh đạo là một dãy nhà cấp bốn, xưa kia
có lẽ dành cho các vị lãnh đạo Đảng cộng sản và những người làm công
tác bảo vệ, phục vụ ở. Nơi đây vào những năm 1975 ngổn ngang những khối
bê tông cốt thép dày hàng mét, chắc là những hầm ngầm chống chiến tranh
phá hoại của Không quân Hoa Kỳ. Hồi đó tôi còn nhỏ, nhiều lần mon men
thị sát những khu vườn, những đống gạch đá ngổn ngang mọc đầy cây dền
cơm có gai sắc nhọn, những đám cỏ hoang mọc toàn cây rau sam, rau má,
chua me dại. Hồi ấy phòng của ông Phụng nằm ngay đầu của dãy nhà sát với
Phòng Tham mưu của Bộ Tư lệnh. Ông Phụng ngăn chiếc phòng ra làm hai
phần bằng một bức vách cót ép, phía trong ông kê một cái giường cá nhân,
một cái tủ và một chiếc hòm nhỏ. Trong chiếc tủ ông thường để vài bộ
quần áo, dăm gói thuốc lá, cái chăn, chai mật ong, gói bánh bích quy và
thỉnh thoảng là vài cân gạo nếp nương do người ta gửi biếu ông. Phòng
trong có một cửa sổ nhỏ trông ra bãi đá sau nhà và khu nhà khách bằng
kính sang trọng. Gian ngoài ông kê một cái bàn nhỏ gần khung cửa sổ thứ
hai, trên có phích nước nóng, bộ ấm chén, một cái ca men và chai nước
sôi để nguội cho tôi uống lúc khát. Dưới mặt đất ông để một cái bếp điện
do ông tự làm lấy, ông còn có vài cái xoong nhỏ để nấu cơm. Những chiếc
xoong nhôm bằng vật liệu quân khí đã được một chú gia công gò rất khéo
để tặng ông. Nguyên trước đây ông Phụng là cấp chỉ huy, lại bị bệnh dạ
dày nên ông được tiêu chuẩn chỉ ăn cơm nếp. Ông ăn cơm nếp suốt 10 năm
trời, tới khi ở với tôi ông mới thôi, và chuyển sang chế độ ăn cơm tẻ
cho tiện. Ông dậy tôi nấu cơm, tôi lấy ngón tay để đo ngấn nước cho vừa.
Ông dậy tôi luộc rau muống không được đậy vung để rau muống không bị
đỏ, ông lại dậy tôi vắt chanh vào nước mắm để chấm rau, tất cả đều vô
cùng mới lạ. Hồi đó tôi mới chỉ là thằng bé lên chín, tôi thao tác lóng
ngóng lắm. Cơm do tôi nấu nhiều lúc vừa sống, vừa khê, rau muống luộc
quá kỹ đỏ cành cạch mà ông không rầy la, chỉ cười độ lượng. Hồi ấy Việt
Nam còn giữ được mối quan hệ rất tốt với nước láng giềng Trung Quốc và
Liên Xô. Tôi nhớ cuấn sách đầu tiên tôi được một chú tặng cho là một
cuốn sách của Trung Quốc in bằng tiếng Việt. Cuốn sách mới cứng, giấy
sao mà trắng, mực sao mà thơm thế, những hình vẽ bằng mực Tàu vô cùng
sinh động. Cuốn sách kể về một cậu bé con nhà nghèo ở Trung Quốc, nhà
chỉ có hai mẹ con rau cháo nuôi nhau, nhà cậu có nuôi được con gà mái
duy nhất để đẻ trứng nuôi mẹ ốm thì bị lính Nhật cưỡng chiếm mất. Do căm
thù quân xâm lược nên cậu bé nhất quyết đi theo Bộ đội Bát lộ quân để
chiến đấu giải phóng Tổ quốc, cậu được điều vào một xưởng in của Bát lộ
quân và đã bắt đầu được giác ngộ từ đó...Tôi không có đủ kiên nhẫn để
xem hết cuốn sách ấy, tôi lấy bút bi của ông vẽ một đàn voi vào những
trang để trắng. Chuyện vẽ voi này bị ông Phụng phát hiện, ông giận lắm,
ông trách cứ tôi rất nghiêm khắc, ông bảo:
- Sách đẹp thế mà đang tâm vẽ bậy vào!
Sau đó cuốn sách không biết được đem cho ai, tôi tiếc muốn khóc. Cuốn thứ hai là một tập họa báo Liên Xô in với hai mầu đen và hồng đỏ với tựa đề "Từ Hồng trường cho đến sông Hồng". Hồng trường là Quảng trường Đỏ của Liên Xô, còn sông Hồng là con sông nổi tiếng của Việt Nam. Nội dung cuốn họa báo nói về những hoạt động của nhân dân Liên Xô nhằm giúp đỡ Việt Nam về mọi mặt.
Tôi còn hay sang Phòng tham mưu để chơi. Trên bàn làm việc có những quyển sổ to để theo dõi công việc hàng ngày và có để những chiếc thước dài khắc chữ Phòng tham mưu. Tôi lấy ngay bút sửa thành Phòng tham ăn, rồi thì Phòng tham lam xong tôi bỏ ra về. Hôm sau trong cuộc họp của Cơ quan Tham mưu, ông Phụng đang đứng diễn thuyết, tôi mò vào xem thì thấy một cô trẻ đẹp mang quân hàm trung uý, mái tóc buộc thành bím hai bên đang ngồi nghe. Thấy tôi vào cô này trợn mắt quát tháo đùng đùng tra hỏi là tại sao tôi cả gan dám viết bậy viết bạ xuyên tạc quý Phòng của cô. Sau này tôi mới biết cô tên là Nhung, ái nữ của Thiếu tướng Tư lệnh Trần Kinh Chi mới được điều về Phòng tham mưu ít lâu. Ông Phụng cả cười, rót trà, châm thuốc hút. Về sau, hồi những năm tám mươi cô làm Viện trưởng Quân y viện 103 ở đường Liễu Giai. Hồi tháng 9 năm 1989 tôi có khám tuyển sức khoẻ với cô con gái chú Thắng (chú Thắng là sỹ quan cấp tá trong Bộ tư lệnh), do được báo trước nên khi gặp tôi, cô hỏi:
- Con bố Phụng đấy à?
Tôi đáp "vâng", cô cười rồi bảo cho các bác sỹ ưu tiên cho tôi, chúng tôi hoàn toàn không gặp một trở ngại gì. Lúc về tôi mời viên Trung uý y tá điếu Rubi bao cứng thế là xong.
Ngay đầu hồi không biết từ bao giờ có một cây vông cổ thụ vừa to vừa cao trông rất hùng vĩ. Tôi đã nghĩ rằng cây này phải có từ thời vua Lê - chúa Trịnh còn trị vì. Toàn thân cây vông được bao phủ một lớp gai đen bóng vừa ngắn lại vừa nhọn, khiến tôi là một thằng bé ưa leo trèo nghịch ngợm mà cũng phải ngán không dám sờ vào. Hễ cứ vào độ hè thu là cây vông lại rắc những bông hoa xuống đất. Hoa vông trông lạ lùng, nó giống hệt như những chiếc hoa tai vàng của những bà già thường đeo, chỉ khác ở chỗ là hoa vông mầu đen và có mùi thơm hăng hắc dễ chịu. Chỗ gốc cây vông, nơi giáp với mặt đất có một cái hốc nhỏ do gỗ vông bị mối mọt ăn mục. Hồi ấy tôi thường ra công khoét cho cái hốc rộng thêm, tôi dọn hết gỗ mục lẫn đất cát ra ngoài làm cho cái hốc rất sạch sẽ. Cái hốc này là nơi chứa của nả của tôi. Tiếng là của nả cho oai nhưng thực ra chỉ là vài hòn bi, mấy cái đệm cao su lấy ra từ vỏ chai bia của chuyên gia Liên Xô uống thải ra để làm bánh xe. Ngày ấy tôi hay lấy những miếng xốp rồi ra công gọt thành xe, lốp xe làm bằng nút chai bia đục thủng, ai cũng khen tôi khéo tay. Tôi lại gom được ít quân hàm cũ, mấy ngôi sao và dăm thứ kí hiệu quân, binh chủng bằng nhôm cũng do binh lính và các sĩ quan thải ra để làm của quý, những thứ này đám trẻ con dân sự thích lắm. Hoặc có lúc tôi biến cái hốc thành nhà tù để giam thằng tù binh cóc, tôi bắt vài chú cóc con bỏ vào trong hốc rồi lấy những que hàn bằng sắt cắm xung quanh giả làm chấn song. Có lúc tôi lại hình dung ra cái hốc như là chuồng thú giống như vườn Bách Thảo ở phía sau Phủ chủ tịch. Hồi ấy cả Hà Nội chỉ có mỗi vườn Bách Thảo là nơi trưng bầy thú rừng cho đồng bào xem, chưa có Công viên Thủ Lệ như bây giờ.
Đằng sau dãy nhà của ông Phụng là một bãi xếp những phiến đá hoa cương và cẩm thạch còn thừa sau khi xây Lăng. Bãi đá này nằm giữa dãy nhà của Cơ quan Tham mưu và khu nhà khách bằng kính sang trọng. Những phiến đá được xếp dựng lên, đối đầu vào nhau như những chiếc lều nhỏ mọc toàn cây dền gai và cỏ dại. Hồi ấy, cứ sau một trận mưa là bãi đá ấy lại ngập nước, tôi hay len lỏi chui vào ngồi chơi trong những túp lều ấy trong giờ nghỉ trưa yên tĩnh. Tôi lại lấy những miếng xốp mà gia công cắt gọt thành hình chiếc tàu, có gắn ngôi sao đỏ và những vạch dọc thân tàu trông khá đẹp. Trong bãi đá này còn có dăm ba đôi cá sin sít (cá cờ) làm tổ. Tổ cá sin sít rất dễ nhận biết bởi bọt nước do cá phun ra thành một đám to như quả sấu, với vô vàn những bong bóng nhỏ li ti mầu trắng đục nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Tôi lấy chỉ và một sợi dây thép bẻ từ dây phanh xe đạp mà làm thành cái cần câu, tôi ngồi chờ cá cắn, nhưng lũ cá ranh ma này hễ thấy bóng người là lẩn như trạch, chả chịu cắn câu. Sốt ruột tôi lại ra công thửa hẳn một tấm lưới to hơn bàn tay đem buộc vào chiếc tàu thuỷ rồi đẩy đi đẩy lại mong cá mắc lưới, song cũng không có kết quả.
Thấy tôi hăm hở bắt cá như vậy, ông Phụng mua cho tôi một đôi cá vàng, tiền mua bể cá ông không có đủ nên ông kiếm cho tôi một cái bình thuỷ tinh nhỏ. Ông thả cá vào bình, lại mua giun để bỏ vào bình, ông dậy cách mỗi buổi tối trước lúc đi ngủ dốc ngược bình cá vài lần để tạo ô xi cho cá thở. Cái sự mua cá cũng là do một số lần ông Phụng hay đèo tôi đi chơi bằng xe đạp lang thang trong chợ Đồng Xuân. Thấy tôi cứ xà vào những hàng bán chim, cá mà trầm trồ thán phục ông biết ngay là tôi rất mê động vật, nên mới mua cho tôi đôi cá ấy.
Ở phía bên kia, cạnh cây vông là một dãy nhà tắm đã bị bỏ hoang. Hồi ấy đã có lần ông Phụng và tôi đã từng tắm ở đây. Trong nền nhà tắm vương vãi tàn tro rơm rạ, và những mảng tường ám khói. Thấy tôi tò mò về sự ấy, ông Phụng giải thích là trong một lần liên hoan, bộ đội đã mang bò vào đây để thui nên mới có những đống tro than như vậy. Sát với dãy nhà tắm là một bộ phận phụ trách Kỹ thuật do bác Cao Sĩ Yêm phụ trách. Bác Yêm là bạn chí cốt của ông Phụng, tôi không rõ mối thâm giao của hai vị xuất phát từ đâu, chỉ biết cứ mỗi khi gặp bác Yêm là ông Phụng cả cười. Bác Yêm rất quý tôi, thấy tôi bác hay ôm mà ra câu đối:
Phụng, Phùng, Phê, Pha, Phấn.
Đó là tên ông Phụng và các con ông. Tôi chịu, không thể trả lời vì câu đối ra quá hắc búa, bác bảo cho tôi khất. Về sau, trong dịp lễ 49 ngày mất của ông Phụng tôi có gặp lại bác Yêm tại nhà ông Phụng ở Hà Nội. Bác bắt tay tôi rất chặt mà bảo:
- Anh đã lớn khôn, lại hay được đi nước ngoài nước trong ắt học rộng hiểu cao, vậy anh đã trả lời được câu đối của tôi chưa?
Tôi bảo "chưa", bác bảo "cho khất". Thật không ngờ chuyện đã 21 năm trôi qua kể từ ngày tôi còn bé cho đến bây giờ mà bác vẫn không quên. Cán bộ quân đội ngày xưa quả thật là những lớp người vàng của "Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công - Vô tư" với đúng nghĩa của nó.
Tiếp theo phòng của bác Yêm là mấy căn phòng khác làm nơi ở và làm việc cho một số sĩ quan phụ trách kĩ thuật. Có một chú đeo quân hàm Thượng uý rất quý tôi. Chú có thói quen là hay ôm tôi rất chặt đến nghẹt thở rồi ra sức mà cà râu vào má tôi làm tôi đau rát muốn chết. Tôi căm chú lắm vì cho là chú chơi ác mình, tôi rắp tâm chờ dịp trả thù. Tôi mon men ra vòi nước nơi các chú hay giặt quần áo, tôi lấy trộm một miếng xà phòng bánh nhỏ bằng ngón tay cái, rồi tôi lấy dăm bẩy que tăm vót thật nhọn mà cắm xuyên qua miếng xà phòng cho tua tủa ra như lông nhím, tôi chờ thời cơ. Rồi vào một buổi chiều hôm nọ, tôi thấy chú ngồi gần cửa sổ mà uống nước với một sĩ quan khác. Tôi cúi xuống thật thấp lần sát chân cửa sổ, rồi lựa khi chú không để ý bất ngờ tôi nhô lên và nhanh tay ném luôn cục xà phòng có cắm những que tăm nhọn vào mặt chú. Sau vụ ấy, chú không thèm nói chuyện với tôi nữa, mà tôi thì cũng ân hận vì nghịch ác quá.
Cuối dãy nhà là bếp Trung táo, chỉ nấu rất ít cho các cấp chỉ huy. Bếp này nằm sát một ao nước tù mọc đầy rong rêu và bèo ong với bùn đen sì. Bếp này do một bác gái tên là Yến phụ trách. Hồi mùa hè những năm 1976 ông Phụng hay giao cho tôi một chiếc ăng gô quân dụng để lấy cơm về hai cha con ăn. Bác Yến chạc ngoài 50 tuổi, người gày gò nhưng nấu ăn rất ngon. Bác thường xào rau muống, nấu canh, rang thịt... Rau muống bác thường chọn loại rau muống ao lá nhỏ, ngọn ngắn mà đỏ đem rửa sạch ngâm nước cho bớt nhựa chát. Sau đó bác đem đảo qua mỡ lợn rồi đem xào với tương, lạc nhân giã nhỏ, nêm thêm mắm muối mì chính và tỏi. Sau khi xào xong rau trông bóng nhẫy, bốc mùi thơm quyến rũ mà ăn vừa giòn, vừa béo lại vừa bùi, ngon ngọt rất hấp dẫn. Sau này tôi chưa thấy ai xào rau muống được ngon như thế bao giờ, tôi cứ tiếc mãi. Món thịt lợn rang của bác cũng rất đặc sắc. Bác hay chọn loại thịt ba chỉ của loại lợn không quá non, không quá già, đem thái mỏng rất đều nhau, sau đó đem đảo trong chảo trên bếp than hồng cho miếng thịt trong ra, sau đó đem rang với muối hạt, nước hàng và hành hoa. Sau khi rang xong miếng thịt ăn vừa béo vừa bùi nhưng không ngấy, lớp bì ăn dẻo chứ không dai, còn miếng thịt nạc bám vào ăn vừa ngon ngọt lại rắn chắc, đậm đà rất khó quên. Nhưng có lẽ đặc sắc nhất là món canh. Tôi đã có lần được ăn bát canh rau do bác nấu, nó chỉ là một thứ rau gì tôi không biết, được thái nhỏ nằm lẫn trong nước canh mầu xanh thẫm. Rau ấy ăn rất mềm mại, hương vị lạ miệng mà mát ruột vô cùng. Đây là lần duy nhất tôi được ăn thứ canh này, sau này tôi võ đoán có thể đó là rau sắng nổi tiếng ở vùng chùa Hương, nhưng rau sắng tôi chưa được ăn bao giờ để có thể so sánh nên đành chịu. Thỉnh thoảng bác còn dúi cho tôi con tôm biển đã bóc vỏ to cỡ gần bằng cổ tay tôi hồi ấy, thấy tôi thích thú ông Phụng lại cười.
Bếp ấy sau này bác Yến nhận thêm cô Hoạt về vừa để bác truyền nghề, vừa làm phụ cho bác đỡ vất vả. Cô Hoạt hồi ấy trẻ, xinh xắn và khỏe mạnh, hai má lúc nào cũng đỏ hồng hào. Cô này có thói quen lạ là hễ cứ thấy tôi đâu là lao đến bế, cấu véo xong lại nhấc tôi lên mà quăng bên nọ, quăng dên kia đến mệt. Số là trước đây tôi là thằng bé trắng trẻo xinh xắn (theo như mọi người kể lại), hai má phinh phính, lại ngáo nga ngáo ngơ như mất sổ gạo nên trông cũng ấn tượng. Sau này hình như cô Hoạt xây dựng gia đình với Trung úy y tá tên là Sỏi. Hồi những năm 80 ông Phụng có phụ trách xây dựng một số công trình nhà ở tại Thành Công - Hà Nội.Theo tiêu chuẩn sỹ quan cao cấp ông được phân một căn hộ năm phòng, sau chờ mãi chả thấy ông nhắc tới chuyện chuyển nhà, tôi có hỏi thì ông bảo:
- Tao đến xem thì thấy cái Hoạt nó chuyển vào ở rồi, thôi cũng kệ chứ chả nhẽ mình đi đôi co với nó!
Chả là hồi ấy cô Hoạt đã xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái nhưng không có chỗ ở, phải tá túc trong cơ quan, nay có cơ hội là liều lĩnh nhảy dù vào luôn, cô có nhà ở bằng cách ấy.
Cán bộ thuở trước trung với nước - hiếu với dân, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, đến tính mạng còn không tiếc thì đối với những người như ông Phụng, một căn hộ năm phòng phỏng có nghĩa gì.
Song song với dãy nhà nơi bác Yêm ở là một dãy nhà khác dành cho công nhân viên Quốc phòng và thợ các loại ở. Giữa hai dãy nhà là hàng cây nhãn thấp lè tè và một khoảng sân nhỏ chát vữa. Tôi nhớ có lần Bộ Tư lệnh tổ chức bán bia hơi ở đây. Hồi ấy bia hơi còn là của quý nên chỉ được phân phối cho các cơ quan nhà nước. Còn gì mát bổ bằng cốc bia hơi mát lạnh nhễ nhại hơi nước bám quanh thành vại uống vào những chiều hè oi nồng. Tôi thấy có chú vớ lấy vại bia mà uống ừng ực ngon lành, cặp môi với hàng ria con kiến bám quanh miệng vại trông rất ngộ nghĩnh, tôi phát phì cười vì vẻ vô tư của họ. Đồ nhắm chả có gì ngoài lạc rang, rồi họ hút thuốc. Hồi ấy thuốc lá Tam Thanh, Tam Đảo hay Trường Sơn đang còn phổ biến và hút khá ngon, chưa có thuốc lá đầu lọc như bây giờ, hoặc nếu có thì rất hi hữu do những cán bộ đi công tác ở nước ngoài mang về. Đám công nhân viên này tá túc trong những căn phòng chật trội, họ ngủ trên những chiếc giường tầng bằng sắt. Ngày thường vào những buổi tối sau giờ làm việc họ ngồi trong phòng hút thuốc, xem báo hoặc trò truyện dưới những chiếc bóng đèn quả lê ánh sáng đỏ cành cạch. Theo như tôi nhận thấy thì họ không được cưng như những quân nhân quân đội trong Bộ Tư lệnh - Những quân nhân của một đội quân anh hùng đã từng đọ súng với những Đế quốc hùng mạnh nhất thế giới như Pháp, Mỹ, Nhật...
Phía cuối đơn vị, là một con đường khá rộng chạy từ phố Ngọc Hà, chỗ quầy bán lương thực thời bao cấp kéo thẳng đến phía sau Lăng giáp với Phủ chủ tịch bởi một bức tường cao ngang đầu người. Phía bên phải con đường là một số họ gia đình ở sau một mương nước nhỏ nông choèn, mương nước này chỉ có nước sau những cơn mưa lớn mùa hạ. Dọc hai bờ mương mọc đầy cỏ dại, người ta dùng những tấm ván làm cầu vào nhà trên dòng nước trong vắt róch rách chảy sau những cơn mưa. Phía bên trái là các cơ quan của Công an Vũ trang (nay là bộ đội Biên phòng), tiếp đó là một đơn vị Công an của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đồn trú. Thỉnh thoảng tôi hay lai vãng vào chơi trong bếp ăn của Công an. Bếp này được dựng lên ở cạnh một ao nước đầy bùn đen và bèo ong phủ đầy ao. Những nhân viên Công an sau giờ làm việc thường hay câu cá ở ao này, tuy vậy tôi chưa thấy họ giật được cá to bao giờ. Có lẽ ao này chỉ toàn có cua, ốc lươn, cá rô và cá cờ là hết...Những nhân viên Công an trắng trẻo đẹp trai sinh hoạt rất nề nếp và trật tự, họ nhìn tôi không ra thân thiện, cũng không xua đuổi. Chắc họ cũng biết rằng vào được đây thì ít ra đứa trẻ là tôi cũng phải là con cháu của một vị Thủ trưởng nào... Bởi thế tôi mặc sức la cà, tò mò xem xét mà không bị bất kì một cản trở nào.
Kề sát ngay đơn vị Công an là xưởng Cơ khí của Bộ Tư lệnh. Xưởng này trang bị khá nhiều máy móc do Liên Xô viện trợ như máy khoan, máy phay, máy tiện, máy hàn, máy cưa sắt và v.v.Tôi cũng hay vào đây xem, rồi tò mò hỏi han linh tinh nhưng các chú hầu như rất bận không có thì giờ chơi với tôi, nên tôi đâm chán mà ít lui lại dần. Từ xưởng cơ khí này ông Phụng hay nhờ các chú làm những con dao bằng thép không gỉ, hàn những cái búa, nhiều khi là trục và ê cu xe đạp cho gia đình. Tôi còn hay thơ thẩn chơi một mình ở dưới chân bức tường gạch ngăn cách giữa Bộ Tư lệnh và Phủ chủ tịch. Phía bên kia bức tường là ngôi nhà sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm văn Đồng. Dưới chân bức tường nơi phần đất thuộc về Bộ Tư lệnh mọc toàn những bụi cây nhỏ lúp xúp không rõ cây gì, tôi hay đi rình bắn chim bằng súng cao su tại đây. Lắm lúc tôi tìm được một vài thứ đồ chơi là đồ của bộ đội vứt đi, chẳng hạn như ngôi sao mũ, một đoạn dây săm xe đạp, máy cái đinh ốc...ông Phụng rất sợ tôi dẫm phải mảnh thuỷ tinh rồi nhiễm trùng nên nghiêm cấm tôi chạy chân đất. Chạy chân đất là thú vui mà tôi thích nhất vì khỏi lo dép đứt, dép tuột quai, hay để quên rồi mất dép...mà lúc về nhà thế nào cũng bị rầy la. Ở gần bức tường, sát với chùa Một Cột là nhà ăn của Đoàn 275. Nhà ăn này rất lớn, có kê những dãy bàn bằng đá ga li tô rất ngăn nắp, sạch sẽ. Tôi hay lân la vào bếp chơi với những chú anh nuôi rất trẻ khoẻ, hiền lành và vui tính. Các chú hay hấp bánh mỳ vào buổi sáng để chia cho đơn vị ăn. Ban ngày các chú nấu cơm, xào rau, nấu canh, rang thịt bằng những chiếc chảo to tướng, đen xì. Chú nào chú nấy mồ hôi nhễ nhại, cổ vắt chiếc khăn mặt ướt để lau mồ hôi rồi đảo cơm bằng chiếc xẻng to tướng trông đến phát ớn. Ở ngay hai đầu của dãy nhà ăn này là một cây đa và một cây si cổ thụ, hùng vĩ không biết có từ đời nào. Phía cuối dãy nhà ăn có giàn mướp che nắng cho một dãy vòi nước công cộng. Các chú Sĩ quan và binh lính sau bữa ăn thường ra đây uống nước lấy từ những chiếc thùng to có lắp vòi nước bằng đồng sáng choang, xong họ ngắt lá mướp để làm đồ rửa bát cho sạch. Tôi lại hay sử dụng lá và hoa mướp như một loại sơn đặc biệt để bôi vào những chiếc xe ô tô làm bằng xốp do tôi tự chế tạo. Nếu thích mầu xanh thì tôi bôi bằng lá mướp, nếu thích mầu vàng thì tôi dùng hoa mướp, các chú bộ đội thấy vậy thì ồ lên ngạc nhiên, khen tôi sáng tạo.
Bếp trưởng là một viên Trung uý tên là Dung. Chú Dung người miền trung du, trạc độ băm nhăm, dáng dấp khoẻ mạnh, tinh nghịch. Chú hay cười khoe chiếc răng nanh bọc vàng sáng choé. Những lần Bộ Tư lệnh liên hoan mừng ngày thành lập Quân đội tổ chức vào ngày 22 - 12 hằng năm là chú Dung thường ra tay làm thịt bò. Chú hạ mấy con bò bằng một nhát búa tạ vào đầu rồi chọc tiết, lột da xào xáo để khao quân. Chú hay tự thưởng cho mình và anh em nhà bếp món thịt bò tái. Món bò tái của chú là một miếng thịt to còn nóng hổi vừa cắt từ con bò mới bị hạ. Thịt này không được nấu nướng gì mà chỉ đem dây lạt tre sâu qua, nhúng vào chảo nước đang sôi sùng sục rồi vớt ra ngay, đem thái mỏng chấm muối ớt hoặc nước mắm. Tôi hay xem chú lột da bò bằng con dao phay sáng loáng, tôi cũng từng được ăn món bíp tếch từ thịt bò tươi do chú chế biến rất mềm, ngon ngọt và thơm. Sau đó vài năm khi nghe tin chú mất vì bệnh viêm gan cổ trướng tôi rất buồn và nhớ chú...
Nằm song song với khu nhà kính là một dãy những căn phòng rất đẹp với những khoảng sân trồng những cây nhãn thấp rất sai quả. Tôi nghĩ đây là các cơ quan Chính trị hoặc nghiệp vụ gì đấy, các Sĩ quan ở đây sống ngăn nắp, trật tự và kín đáo. Phía sau, gần một khoảng sân rộng có cây cổ thụ khá lớn là Ban xe với một dãy xe con, xe tải, xe khách xếp liền nhau. Ông Phụng hay xuống Ban xe để uống trà, hút thuốc. Các Sĩ quan ở đây sống rất tếu táo, lém lỉnh đúng như câu ngạn ngữ dân gian hiện đại từng kết luận "cục đất vứt lên xe cũng biết nói". Ông Phụng rất quý chú Vanh người Hà Nam. Chú Vanh trông thông minh, nhanh nhẹn, chú rất hay bôi bác, đả kích vợ làm ai cũng nghĩ vợ chú là một mẹ xề vụng về, quê kệch mà nếu không răng vổ thì cũng mũi hoác, môi đỉa trâu, đụng đâu hỏng đấy. Nhưng sự thực không phải như vậy. Tôi nhớ có lần vợ chú lên thăm, hai vợ chồng chú ra nhà ông Phụng để làm liên hoan cho tiện, tôi mới nhìn thấy vợ chú. Thì ra vợ chú rất trẻ và trắng trẻo xinh đẹp, lại hiền lành chân chất, ai hỏi cũng chỉ cười mà trả lời nhỏ nhẹ, đoan trang. Thì ra vì quá yêu vợ mà chú khịa, chú ca ngợi bằng cách nói ngược lại những ưu điểm của vợ chú làm chúng tôi ai cũng hiểu nhầm.
Gần ban xe là Thư viện với căn nhà rất đẹp, bên con đường đi bộ rải sỏi, cửa sổ trông ra sân tập võ của Đoàn tiêu binh. Có một vài lần tôi vào trong thư viện để tìm mượn sách, nhưng ở đây toàn sách người lớn, sách triết học không phải là mối quan tâm của tôi nên tôi không còn lui tới nữa. Cùng dãy nhà với Đoàn tiêu binh có một phòng xem Ti vi, những buổi tối tôi thường hay xem Ti vi tại đây. Hồi ấy chương trình truyền hình của Việt Nam còn nghèo nàn và sơ sài. Chúng tôi hay xem những vở kịch nói về đề tài chiến đầu của bộ đội trong thời kì chống Mỹ, hoặc những vở chèo về đề tài kháng chiến chống Pháp. Thỉnh thoảng chúng tôi được xem những buổi ca nhạc khá hay với những bài hát như "tình ca Tây Bắc" hay "nổi lửa lên em" "tôi là Lê anh Nuôi", xen giữa những bài hát thể nào cũng có một vài tiết mục múa của Đoàn Ca múa Trung ương biểu diễn. Những bộ phim về đề tài chống phát xít của khối các nước xa hội chủ nghĩa cũng hay được trình chiếu làm tôi thích mê. Các chú thay nhau bế tôi ngồi để xem suốt buổi tối. Bộ phim nhựa đầu tiên tôi xem trong Bộ Tư lệnh là phim "Rô Bin Xơn" do Liên Xô sản xuất. Phim chiếu đến cảnh quay đám thổ dân định hành hình nhân vật Thứ Sáu thì tôi vừa sợ vừa buồn ngủ nên đã bỏ về. Sau đó tôi còn được xem phim nhiều phim thần thoại cũng do Liên Xô sản xuất trong đó có phim Ruxlan và Lutmila với những cảnh chiến đấu làm tôi vừa thích vừa sợ.
Hồi ấy chùa Một Cột còn là khu vực được bảo vệ nghiêm minh, không cho mọi người tự do ra vào như bây giờ nên tôi mặc sức tung hoành. Vào những buổi trưa yên tĩnh tôi hay thơ thẩn chơi dưới gốc cây bồ đề cổ thụ do chính tay Tổng thống Ân Độ là ngài Rajendra Prasad tặng Chủ tịch Hồ chí Minh khi Chủ tịch Hồ chí Minh sang thăm Ấn Độ năm 1958. Dưới gốc bồ đề tôi hay nhặt được những con cánh cam mầu xanh rất đẹp, hoặc những chùm quả dái ngựa để làm đạn súng cao su. Nhưng tôi phát hiện ra hạt quả này méo, bắn không chuẩn, lại nhẹ nên gia tốc thấp, bắn đi không xa nên tôi không sử dụng nữa. Tôi còn kỳ công đi khuân những chiếc chân giường bằng sắt để làm hẳn một chiếc lô cốt kiên cố có mái làm bằng giấy dầu ngay sát chân tường chia cắt Bộ Tư lệnh với chùa Một Cột. Ở trong lô cốt tôi hì hục khuân về cơ man nào là những ống nước bằng thép, những đoạn ống cao su để giả làm súng. Vào những hôm trời nắng tôi ngồi trong lều tránh nắng, nghe những bài hát, những đoạn thơ ca ngợi Hồ chủ tịch phát trên hệ thống loa ngoài Quảng trường đến nỗi tôi thuộc gần như hết những bài hát, những đoạn thơ ấy. Sau này, có một vài đứa trẻ con nhà thường dân ngoài phố Ngọc Hà lỉnh vào sân chùa chơi, thấy túp lều của tôi thì thích lắm, lân la gạ tôi cho chơi cùng, song chúng chưa chơi được bao lâu thì bị các chú cảnh vệ phát hiện và đuổi ra. Tôi lại thơ thẩn chơi một mình.
Tiện đây tôi cũng kể sơ sơ về Bộ Tư lệnh cho bạn đọc hiểu thêm.
Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được thành lập ngày 28 tháng 12 năm 1975 theo quyết định 279/VBBQLT của Thường vụ Quân ủy Trung ương với phiên hiệu là Bộ tư lệnh 969 (969 nghĩa là tháng 9 năm 1969 - ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Hồi ấy Quân ủy trung ương tạm điều Thượng tá Lương Soạn làm quyền Tư lệnh và Thượng tá Lưu Công Tiền làm quyền Chính ủy.
- Sách đẹp thế mà đang tâm vẽ bậy vào!
Sau đó cuốn sách không biết được đem cho ai, tôi tiếc muốn khóc. Cuốn thứ hai là một tập họa báo Liên Xô in với hai mầu đen và hồng đỏ với tựa đề "Từ Hồng trường cho đến sông Hồng". Hồng trường là Quảng trường Đỏ của Liên Xô, còn sông Hồng là con sông nổi tiếng của Việt Nam. Nội dung cuốn họa báo nói về những hoạt động của nhân dân Liên Xô nhằm giúp đỡ Việt Nam về mọi mặt.
Tôi còn hay sang Phòng tham mưu để chơi. Trên bàn làm việc có những quyển sổ to để theo dõi công việc hàng ngày và có để những chiếc thước dài khắc chữ Phòng tham mưu. Tôi lấy ngay bút sửa thành Phòng tham ăn, rồi thì Phòng tham lam xong tôi bỏ ra về. Hôm sau trong cuộc họp của Cơ quan Tham mưu, ông Phụng đang đứng diễn thuyết, tôi mò vào xem thì thấy một cô trẻ đẹp mang quân hàm trung uý, mái tóc buộc thành bím hai bên đang ngồi nghe. Thấy tôi vào cô này trợn mắt quát tháo đùng đùng tra hỏi là tại sao tôi cả gan dám viết bậy viết bạ xuyên tạc quý Phòng của cô. Sau này tôi mới biết cô tên là Nhung, ái nữ của Thiếu tướng Tư lệnh Trần Kinh Chi mới được điều về Phòng tham mưu ít lâu. Ông Phụng cả cười, rót trà, châm thuốc hút. Về sau, hồi những năm tám mươi cô làm Viện trưởng Quân y viện 103 ở đường Liễu Giai. Hồi tháng 9 năm 1989 tôi có khám tuyển sức khoẻ với cô con gái chú Thắng (chú Thắng là sỹ quan cấp tá trong Bộ tư lệnh), do được báo trước nên khi gặp tôi, cô hỏi:
- Con bố Phụng đấy à?
Tôi đáp "vâng", cô cười rồi bảo cho các bác sỹ ưu tiên cho tôi, chúng tôi hoàn toàn không gặp một trở ngại gì. Lúc về tôi mời viên Trung uý y tá điếu Rubi bao cứng thế là xong.
Ngay đầu hồi không biết từ bao giờ có một cây vông cổ thụ vừa to vừa cao trông rất hùng vĩ. Tôi đã nghĩ rằng cây này phải có từ thời vua Lê - chúa Trịnh còn trị vì. Toàn thân cây vông được bao phủ một lớp gai đen bóng vừa ngắn lại vừa nhọn, khiến tôi là một thằng bé ưa leo trèo nghịch ngợm mà cũng phải ngán không dám sờ vào. Hễ cứ vào độ hè thu là cây vông lại rắc những bông hoa xuống đất. Hoa vông trông lạ lùng, nó giống hệt như những chiếc hoa tai vàng của những bà già thường đeo, chỉ khác ở chỗ là hoa vông mầu đen và có mùi thơm hăng hắc dễ chịu. Chỗ gốc cây vông, nơi giáp với mặt đất có một cái hốc nhỏ do gỗ vông bị mối mọt ăn mục. Hồi ấy tôi thường ra công khoét cho cái hốc rộng thêm, tôi dọn hết gỗ mục lẫn đất cát ra ngoài làm cho cái hốc rất sạch sẽ. Cái hốc này là nơi chứa của nả của tôi. Tiếng là của nả cho oai nhưng thực ra chỉ là vài hòn bi, mấy cái đệm cao su lấy ra từ vỏ chai bia của chuyên gia Liên Xô uống thải ra để làm bánh xe. Ngày ấy tôi hay lấy những miếng xốp rồi ra công gọt thành xe, lốp xe làm bằng nút chai bia đục thủng, ai cũng khen tôi khéo tay. Tôi lại gom được ít quân hàm cũ, mấy ngôi sao và dăm thứ kí hiệu quân, binh chủng bằng nhôm cũng do binh lính và các sĩ quan thải ra để làm của quý, những thứ này đám trẻ con dân sự thích lắm. Hoặc có lúc tôi biến cái hốc thành nhà tù để giam thằng tù binh cóc, tôi bắt vài chú cóc con bỏ vào trong hốc rồi lấy những que hàn bằng sắt cắm xung quanh giả làm chấn song. Có lúc tôi lại hình dung ra cái hốc như là chuồng thú giống như vườn Bách Thảo ở phía sau Phủ chủ tịch. Hồi ấy cả Hà Nội chỉ có mỗi vườn Bách Thảo là nơi trưng bầy thú rừng cho đồng bào xem, chưa có Công viên Thủ Lệ như bây giờ.
Đằng sau dãy nhà của ông Phụng là một bãi xếp những phiến đá hoa cương và cẩm thạch còn thừa sau khi xây Lăng. Bãi đá này nằm giữa dãy nhà của Cơ quan Tham mưu và khu nhà khách bằng kính sang trọng. Những phiến đá được xếp dựng lên, đối đầu vào nhau như những chiếc lều nhỏ mọc toàn cây dền gai và cỏ dại. Hồi ấy, cứ sau một trận mưa là bãi đá ấy lại ngập nước, tôi hay len lỏi chui vào ngồi chơi trong những túp lều ấy trong giờ nghỉ trưa yên tĩnh. Tôi lại lấy những miếng xốp mà gia công cắt gọt thành hình chiếc tàu, có gắn ngôi sao đỏ và những vạch dọc thân tàu trông khá đẹp. Trong bãi đá này còn có dăm ba đôi cá sin sít (cá cờ) làm tổ. Tổ cá sin sít rất dễ nhận biết bởi bọt nước do cá phun ra thành một đám to như quả sấu, với vô vàn những bong bóng nhỏ li ti mầu trắng đục nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Tôi lấy chỉ và một sợi dây thép bẻ từ dây phanh xe đạp mà làm thành cái cần câu, tôi ngồi chờ cá cắn, nhưng lũ cá ranh ma này hễ thấy bóng người là lẩn như trạch, chả chịu cắn câu. Sốt ruột tôi lại ra công thửa hẳn một tấm lưới to hơn bàn tay đem buộc vào chiếc tàu thuỷ rồi đẩy đi đẩy lại mong cá mắc lưới, song cũng không có kết quả.
Thấy tôi hăm hở bắt cá như vậy, ông Phụng mua cho tôi một đôi cá vàng, tiền mua bể cá ông không có đủ nên ông kiếm cho tôi một cái bình thuỷ tinh nhỏ. Ông thả cá vào bình, lại mua giun để bỏ vào bình, ông dậy cách mỗi buổi tối trước lúc đi ngủ dốc ngược bình cá vài lần để tạo ô xi cho cá thở. Cái sự mua cá cũng là do một số lần ông Phụng hay đèo tôi đi chơi bằng xe đạp lang thang trong chợ Đồng Xuân. Thấy tôi cứ xà vào những hàng bán chim, cá mà trầm trồ thán phục ông biết ngay là tôi rất mê động vật, nên mới mua cho tôi đôi cá ấy.
Ở phía bên kia, cạnh cây vông là một dãy nhà tắm đã bị bỏ hoang. Hồi ấy đã có lần ông Phụng và tôi đã từng tắm ở đây. Trong nền nhà tắm vương vãi tàn tro rơm rạ, và những mảng tường ám khói. Thấy tôi tò mò về sự ấy, ông Phụng giải thích là trong một lần liên hoan, bộ đội đã mang bò vào đây để thui nên mới có những đống tro than như vậy. Sát với dãy nhà tắm là một bộ phận phụ trách Kỹ thuật do bác Cao Sĩ Yêm phụ trách. Bác Yêm là bạn chí cốt của ông Phụng, tôi không rõ mối thâm giao của hai vị xuất phát từ đâu, chỉ biết cứ mỗi khi gặp bác Yêm là ông Phụng cả cười. Bác Yêm rất quý tôi, thấy tôi bác hay ôm mà ra câu đối:
Phụng, Phùng, Phê, Pha, Phấn.
Đó là tên ông Phụng và các con ông. Tôi chịu, không thể trả lời vì câu đối ra quá hắc búa, bác bảo cho tôi khất. Về sau, trong dịp lễ 49 ngày mất của ông Phụng tôi có gặp lại bác Yêm tại nhà ông Phụng ở Hà Nội. Bác bắt tay tôi rất chặt mà bảo:
- Anh đã lớn khôn, lại hay được đi nước ngoài nước trong ắt học rộng hiểu cao, vậy anh đã trả lời được câu đối của tôi chưa?
Tôi bảo "chưa", bác bảo "cho khất". Thật không ngờ chuyện đã 21 năm trôi qua kể từ ngày tôi còn bé cho đến bây giờ mà bác vẫn không quên. Cán bộ quân đội ngày xưa quả thật là những lớp người vàng của "Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công - Vô tư" với đúng nghĩa của nó.
Tiếp theo phòng của bác Yêm là mấy căn phòng khác làm nơi ở và làm việc cho một số sĩ quan phụ trách kĩ thuật. Có một chú đeo quân hàm Thượng uý rất quý tôi. Chú có thói quen là hay ôm tôi rất chặt đến nghẹt thở rồi ra sức mà cà râu vào má tôi làm tôi đau rát muốn chết. Tôi căm chú lắm vì cho là chú chơi ác mình, tôi rắp tâm chờ dịp trả thù. Tôi mon men ra vòi nước nơi các chú hay giặt quần áo, tôi lấy trộm một miếng xà phòng bánh nhỏ bằng ngón tay cái, rồi tôi lấy dăm bẩy que tăm vót thật nhọn mà cắm xuyên qua miếng xà phòng cho tua tủa ra như lông nhím, tôi chờ thời cơ. Rồi vào một buổi chiều hôm nọ, tôi thấy chú ngồi gần cửa sổ mà uống nước với một sĩ quan khác. Tôi cúi xuống thật thấp lần sát chân cửa sổ, rồi lựa khi chú không để ý bất ngờ tôi nhô lên và nhanh tay ném luôn cục xà phòng có cắm những que tăm nhọn vào mặt chú. Sau vụ ấy, chú không thèm nói chuyện với tôi nữa, mà tôi thì cũng ân hận vì nghịch ác quá.
Cuối dãy nhà là bếp Trung táo, chỉ nấu rất ít cho các cấp chỉ huy. Bếp này nằm sát một ao nước tù mọc đầy rong rêu và bèo ong với bùn đen sì. Bếp này do một bác gái tên là Yến phụ trách. Hồi mùa hè những năm 1976 ông Phụng hay giao cho tôi một chiếc ăng gô quân dụng để lấy cơm về hai cha con ăn. Bác Yến chạc ngoài 50 tuổi, người gày gò nhưng nấu ăn rất ngon. Bác thường xào rau muống, nấu canh, rang thịt... Rau muống bác thường chọn loại rau muống ao lá nhỏ, ngọn ngắn mà đỏ đem rửa sạch ngâm nước cho bớt nhựa chát. Sau đó bác đem đảo qua mỡ lợn rồi đem xào với tương, lạc nhân giã nhỏ, nêm thêm mắm muối mì chính và tỏi. Sau khi xào xong rau trông bóng nhẫy, bốc mùi thơm quyến rũ mà ăn vừa giòn, vừa béo lại vừa bùi, ngon ngọt rất hấp dẫn. Sau này tôi chưa thấy ai xào rau muống được ngon như thế bao giờ, tôi cứ tiếc mãi. Món thịt lợn rang của bác cũng rất đặc sắc. Bác hay chọn loại thịt ba chỉ của loại lợn không quá non, không quá già, đem thái mỏng rất đều nhau, sau đó đem đảo trong chảo trên bếp than hồng cho miếng thịt trong ra, sau đó đem rang với muối hạt, nước hàng và hành hoa. Sau khi rang xong miếng thịt ăn vừa béo vừa bùi nhưng không ngấy, lớp bì ăn dẻo chứ không dai, còn miếng thịt nạc bám vào ăn vừa ngon ngọt lại rắn chắc, đậm đà rất khó quên. Nhưng có lẽ đặc sắc nhất là món canh. Tôi đã có lần được ăn bát canh rau do bác nấu, nó chỉ là một thứ rau gì tôi không biết, được thái nhỏ nằm lẫn trong nước canh mầu xanh thẫm. Rau ấy ăn rất mềm mại, hương vị lạ miệng mà mát ruột vô cùng. Đây là lần duy nhất tôi được ăn thứ canh này, sau này tôi võ đoán có thể đó là rau sắng nổi tiếng ở vùng chùa Hương, nhưng rau sắng tôi chưa được ăn bao giờ để có thể so sánh nên đành chịu. Thỉnh thoảng bác còn dúi cho tôi con tôm biển đã bóc vỏ to cỡ gần bằng cổ tay tôi hồi ấy, thấy tôi thích thú ông Phụng lại cười.
Bếp ấy sau này bác Yến nhận thêm cô Hoạt về vừa để bác truyền nghề, vừa làm phụ cho bác đỡ vất vả. Cô Hoạt hồi ấy trẻ, xinh xắn và khỏe mạnh, hai má lúc nào cũng đỏ hồng hào. Cô này có thói quen lạ là hễ cứ thấy tôi đâu là lao đến bế, cấu véo xong lại nhấc tôi lên mà quăng bên nọ, quăng dên kia đến mệt. Số là trước đây tôi là thằng bé trắng trẻo xinh xắn (theo như mọi người kể lại), hai má phinh phính, lại ngáo nga ngáo ngơ như mất sổ gạo nên trông cũng ấn tượng. Sau này hình như cô Hoạt xây dựng gia đình với Trung úy y tá tên là Sỏi. Hồi những năm 80 ông Phụng có phụ trách xây dựng một số công trình nhà ở tại Thành Công - Hà Nội.Theo tiêu chuẩn sỹ quan cao cấp ông được phân một căn hộ năm phòng, sau chờ mãi chả thấy ông nhắc tới chuyện chuyển nhà, tôi có hỏi thì ông bảo:
- Tao đến xem thì thấy cái Hoạt nó chuyển vào ở rồi, thôi cũng kệ chứ chả nhẽ mình đi đôi co với nó!
Chả là hồi ấy cô Hoạt đã xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái nhưng không có chỗ ở, phải tá túc trong cơ quan, nay có cơ hội là liều lĩnh nhảy dù vào luôn, cô có nhà ở bằng cách ấy.
Cán bộ thuở trước trung với nước - hiếu với dân, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, đến tính mạng còn không tiếc thì đối với những người như ông Phụng, một căn hộ năm phòng phỏng có nghĩa gì.
Song song với dãy nhà nơi bác Yêm ở là một dãy nhà khác dành cho công nhân viên Quốc phòng và thợ các loại ở. Giữa hai dãy nhà là hàng cây nhãn thấp lè tè và một khoảng sân nhỏ chát vữa. Tôi nhớ có lần Bộ Tư lệnh tổ chức bán bia hơi ở đây. Hồi ấy bia hơi còn là của quý nên chỉ được phân phối cho các cơ quan nhà nước. Còn gì mát bổ bằng cốc bia hơi mát lạnh nhễ nhại hơi nước bám quanh thành vại uống vào những chiều hè oi nồng. Tôi thấy có chú vớ lấy vại bia mà uống ừng ực ngon lành, cặp môi với hàng ria con kiến bám quanh miệng vại trông rất ngộ nghĩnh, tôi phát phì cười vì vẻ vô tư của họ. Đồ nhắm chả có gì ngoài lạc rang, rồi họ hút thuốc. Hồi ấy thuốc lá Tam Thanh, Tam Đảo hay Trường Sơn đang còn phổ biến và hút khá ngon, chưa có thuốc lá đầu lọc như bây giờ, hoặc nếu có thì rất hi hữu do những cán bộ đi công tác ở nước ngoài mang về. Đám công nhân viên này tá túc trong những căn phòng chật trội, họ ngủ trên những chiếc giường tầng bằng sắt. Ngày thường vào những buổi tối sau giờ làm việc họ ngồi trong phòng hút thuốc, xem báo hoặc trò truyện dưới những chiếc bóng đèn quả lê ánh sáng đỏ cành cạch. Theo như tôi nhận thấy thì họ không được cưng như những quân nhân quân đội trong Bộ Tư lệnh - Những quân nhân của một đội quân anh hùng đã từng đọ súng với những Đế quốc hùng mạnh nhất thế giới như Pháp, Mỹ, Nhật...
Phía cuối đơn vị, là một con đường khá rộng chạy từ phố Ngọc Hà, chỗ quầy bán lương thực thời bao cấp kéo thẳng đến phía sau Lăng giáp với Phủ chủ tịch bởi một bức tường cao ngang đầu người. Phía bên phải con đường là một số họ gia đình ở sau một mương nước nhỏ nông choèn, mương nước này chỉ có nước sau những cơn mưa lớn mùa hạ. Dọc hai bờ mương mọc đầy cỏ dại, người ta dùng những tấm ván làm cầu vào nhà trên dòng nước trong vắt róch rách chảy sau những cơn mưa. Phía bên trái là các cơ quan của Công an Vũ trang (nay là bộ đội Biên phòng), tiếp đó là một đơn vị Công an của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đồn trú. Thỉnh thoảng tôi hay lai vãng vào chơi trong bếp ăn của Công an. Bếp này được dựng lên ở cạnh một ao nước đầy bùn đen và bèo ong phủ đầy ao. Những nhân viên Công an sau giờ làm việc thường hay câu cá ở ao này, tuy vậy tôi chưa thấy họ giật được cá to bao giờ. Có lẽ ao này chỉ toàn có cua, ốc lươn, cá rô và cá cờ là hết...Những nhân viên Công an trắng trẻo đẹp trai sinh hoạt rất nề nếp và trật tự, họ nhìn tôi không ra thân thiện, cũng không xua đuổi. Chắc họ cũng biết rằng vào được đây thì ít ra đứa trẻ là tôi cũng phải là con cháu của một vị Thủ trưởng nào... Bởi thế tôi mặc sức la cà, tò mò xem xét mà không bị bất kì một cản trở nào.
Kề sát ngay đơn vị Công an là xưởng Cơ khí của Bộ Tư lệnh. Xưởng này trang bị khá nhiều máy móc do Liên Xô viện trợ như máy khoan, máy phay, máy tiện, máy hàn, máy cưa sắt và v.v.Tôi cũng hay vào đây xem, rồi tò mò hỏi han linh tinh nhưng các chú hầu như rất bận không có thì giờ chơi với tôi, nên tôi đâm chán mà ít lui lại dần. Từ xưởng cơ khí này ông Phụng hay nhờ các chú làm những con dao bằng thép không gỉ, hàn những cái búa, nhiều khi là trục và ê cu xe đạp cho gia đình. Tôi còn hay thơ thẩn chơi một mình ở dưới chân bức tường gạch ngăn cách giữa Bộ Tư lệnh và Phủ chủ tịch. Phía bên kia bức tường là ngôi nhà sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm văn Đồng. Dưới chân bức tường nơi phần đất thuộc về Bộ Tư lệnh mọc toàn những bụi cây nhỏ lúp xúp không rõ cây gì, tôi hay đi rình bắn chim bằng súng cao su tại đây. Lắm lúc tôi tìm được một vài thứ đồ chơi là đồ của bộ đội vứt đi, chẳng hạn như ngôi sao mũ, một đoạn dây săm xe đạp, máy cái đinh ốc...ông Phụng rất sợ tôi dẫm phải mảnh thuỷ tinh rồi nhiễm trùng nên nghiêm cấm tôi chạy chân đất. Chạy chân đất là thú vui mà tôi thích nhất vì khỏi lo dép đứt, dép tuột quai, hay để quên rồi mất dép...mà lúc về nhà thế nào cũng bị rầy la. Ở gần bức tường, sát với chùa Một Cột là nhà ăn của Đoàn 275. Nhà ăn này rất lớn, có kê những dãy bàn bằng đá ga li tô rất ngăn nắp, sạch sẽ. Tôi hay lân la vào bếp chơi với những chú anh nuôi rất trẻ khoẻ, hiền lành và vui tính. Các chú hay hấp bánh mỳ vào buổi sáng để chia cho đơn vị ăn. Ban ngày các chú nấu cơm, xào rau, nấu canh, rang thịt bằng những chiếc chảo to tướng, đen xì. Chú nào chú nấy mồ hôi nhễ nhại, cổ vắt chiếc khăn mặt ướt để lau mồ hôi rồi đảo cơm bằng chiếc xẻng to tướng trông đến phát ớn. Ở ngay hai đầu của dãy nhà ăn này là một cây đa và một cây si cổ thụ, hùng vĩ không biết có từ đời nào. Phía cuối dãy nhà ăn có giàn mướp che nắng cho một dãy vòi nước công cộng. Các chú Sĩ quan và binh lính sau bữa ăn thường ra đây uống nước lấy từ những chiếc thùng to có lắp vòi nước bằng đồng sáng choang, xong họ ngắt lá mướp để làm đồ rửa bát cho sạch. Tôi lại hay sử dụng lá và hoa mướp như một loại sơn đặc biệt để bôi vào những chiếc xe ô tô làm bằng xốp do tôi tự chế tạo. Nếu thích mầu xanh thì tôi bôi bằng lá mướp, nếu thích mầu vàng thì tôi dùng hoa mướp, các chú bộ đội thấy vậy thì ồ lên ngạc nhiên, khen tôi sáng tạo.
Bếp trưởng là một viên Trung uý tên là Dung. Chú Dung người miền trung du, trạc độ băm nhăm, dáng dấp khoẻ mạnh, tinh nghịch. Chú hay cười khoe chiếc răng nanh bọc vàng sáng choé. Những lần Bộ Tư lệnh liên hoan mừng ngày thành lập Quân đội tổ chức vào ngày 22 - 12 hằng năm là chú Dung thường ra tay làm thịt bò. Chú hạ mấy con bò bằng một nhát búa tạ vào đầu rồi chọc tiết, lột da xào xáo để khao quân. Chú hay tự thưởng cho mình và anh em nhà bếp món thịt bò tái. Món bò tái của chú là một miếng thịt to còn nóng hổi vừa cắt từ con bò mới bị hạ. Thịt này không được nấu nướng gì mà chỉ đem dây lạt tre sâu qua, nhúng vào chảo nước đang sôi sùng sục rồi vớt ra ngay, đem thái mỏng chấm muối ớt hoặc nước mắm. Tôi hay xem chú lột da bò bằng con dao phay sáng loáng, tôi cũng từng được ăn món bíp tếch từ thịt bò tươi do chú chế biến rất mềm, ngon ngọt và thơm. Sau đó vài năm khi nghe tin chú mất vì bệnh viêm gan cổ trướng tôi rất buồn và nhớ chú...
Nằm song song với khu nhà kính là một dãy những căn phòng rất đẹp với những khoảng sân trồng những cây nhãn thấp rất sai quả. Tôi nghĩ đây là các cơ quan Chính trị hoặc nghiệp vụ gì đấy, các Sĩ quan ở đây sống ngăn nắp, trật tự và kín đáo. Phía sau, gần một khoảng sân rộng có cây cổ thụ khá lớn là Ban xe với một dãy xe con, xe tải, xe khách xếp liền nhau. Ông Phụng hay xuống Ban xe để uống trà, hút thuốc. Các Sĩ quan ở đây sống rất tếu táo, lém lỉnh đúng như câu ngạn ngữ dân gian hiện đại từng kết luận "cục đất vứt lên xe cũng biết nói". Ông Phụng rất quý chú Vanh người Hà Nam. Chú Vanh trông thông minh, nhanh nhẹn, chú rất hay bôi bác, đả kích vợ làm ai cũng nghĩ vợ chú là một mẹ xề vụng về, quê kệch mà nếu không răng vổ thì cũng mũi hoác, môi đỉa trâu, đụng đâu hỏng đấy. Nhưng sự thực không phải như vậy. Tôi nhớ có lần vợ chú lên thăm, hai vợ chồng chú ra nhà ông Phụng để làm liên hoan cho tiện, tôi mới nhìn thấy vợ chú. Thì ra vợ chú rất trẻ và trắng trẻo xinh đẹp, lại hiền lành chân chất, ai hỏi cũng chỉ cười mà trả lời nhỏ nhẹ, đoan trang. Thì ra vì quá yêu vợ mà chú khịa, chú ca ngợi bằng cách nói ngược lại những ưu điểm của vợ chú làm chúng tôi ai cũng hiểu nhầm.
Gần ban xe là Thư viện với căn nhà rất đẹp, bên con đường đi bộ rải sỏi, cửa sổ trông ra sân tập võ của Đoàn tiêu binh. Có một vài lần tôi vào trong thư viện để tìm mượn sách, nhưng ở đây toàn sách người lớn, sách triết học không phải là mối quan tâm của tôi nên tôi không còn lui tới nữa. Cùng dãy nhà với Đoàn tiêu binh có một phòng xem Ti vi, những buổi tối tôi thường hay xem Ti vi tại đây. Hồi ấy chương trình truyền hình của Việt Nam còn nghèo nàn và sơ sài. Chúng tôi hay xem những vở kịch nói về đề tài chiến đầu của bộ đội trong thời kì chống Mỹ, hoặc những vở chèo về đề tài kháng chiến chống Pháp. Thỉnh thoảng chúng tôi được xem những buổi ca nhạc khá hay với những bài hát như "tình ca Tây Bắc" hay "nổi lửa lên em" "tôi là Lê anh Nuôi", xen giữa những bài hát thể nào cũng có một vài tiết mục múa của Đoàn Ca múa Trung ương biểu diễn. Những bộ phim về đề tài chống phát xít của khối các nước xa hội chủ nghĩa cũng hay được trình chiếu làm tôi thích mê. Các chú thay nhau bế tôi ngồi để xem suốt buổi tối. Bộ phim nhựa đầu tiên tôi xem trong Bộ Tư lệnh là phim "Rô Bin Xơn" do Liên Xô sản xuất. Phim chiếu đến cảnh quay đám thổ dân định hành hình nhân vật Thứ Sáu thì tôi vừa sợ vừa buồn ngủ nên đã bỏ về. Sau đó tôi còn được xem phim nhiều phim thần thoại cũng do Liên Xô sản xuất trong đó có phim Ruxlan và Lutmila với những cảnh chiến đấu làm tôi vừa thích vừa sợ.
Hồi ấy chùa Một Cột còn là khu vực được bảo vệ nghiêm minh, không cho mọi người tự do ra vào như bây giờ nên tôi mặc sức tung hoành. Vào những buổi trưa yên tĩnh tôi hay thơ thẩn chơi dưới gốc cây bồ đề cổ thụ do chính tay Tổng thống Ân Độ là ngài Rajendra Prasad tặng Chủ tịch Hồ chí Minh khi Chủ tịch Hồ chí Minh sang thăm Ấn Độ năm 1958. Dưới gốc bồ đề tôi hay nhặt được những con cánh cam mầu xanh rất đẹp, hoặc những chùm quả dái ngựa để làm đạn súng cao su. Nhưng tôi phát hiện ra hạt quả này méo, bắn không chuẩn, lại nhẹ nên gia tốc thấp, bắn đi không xa nên tôi không sử dụng nữa. Tôi còn kỳ công đi khuân những chiếc chân giường bằng sắt để làm hẳn một chiếc lô cốt kiên cố có mái làm bằng giấy dầu ngay sát chân tường chia cắt Bộ Tư lệnh với chùa Một Cột. Ở trong lô cốt tôi hì hục khuân về cơ man nào là những ống nước bằng thép, những đoạn ống cao su để giả làm súng. Vào những hôm trời nắng tôi ngồi trong lều tránh nắng, nghe những bài hát, những đoạn thơ ca ngợi Hồ chủ tịch phát trên hệ thống loa ngoài Quảng trường đến nỗi tôi thuộc gần như hết những bài hát, những đoạn thơ ấy. Sau này, có một vài đứa trẻ con nhà thường dân ngoài phố Ngọc Hà lỉnh vào sân chùa chơi, thấy túp lều của tôi thì thích lắm, lân la gạ tôi cho chơi cùng, song chúng chưa chơi được bao lâu thì bị các chú cảnh vệ phát hiện và đuổi ra. Tôi lại thơ thẩn chơi một mình.
Tiện đây tôi cũng kể sơ sơ về Bộ Tư lệnh cho bạn đọc hiểu thêm.
Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được thành lập ngày 28 tháng 12 năm 1975 theo quyết định 279/VBBQLT của Thường vụ Quân ủy Trung ương với phiên hiệu là Bộ tư lệnh 969 (969 nghĩa là tháng 9 năm 1969 - ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Hồi ấy Quân ủy trung ương tạm điều Thượng tá Lương Soạn làm quyền Tư lệnh và Thượng tá Lưu Công Tiền làm quyền Chính ủy.
Thiếu tướng Lương Soạn
Thượng
tá Lương Soạn (sau này là Thiếu tướng) quê ở Quảng Nam, dáng người thấp
đậm, cục mịch mang đậm phong cách đặc trưng của nông dân miền thượng du
Trung Bộ. Ông là người ít nói, thâm trầm, thỉnh thoảng hay cười trông
rất hiền lành, chất phác. Những hôm trời nóng ông hay vén áo lên cao
khoe cái bụng đầy sẹo do mảnh đạn từ hồi kháng chiến chống Pháp găm vào.
Nghe nói trong một trận chiến đấu ông bị mảnh pháo chém bể bụng, lòi
ruột phải lấy cái mũ úp vào. Ông đã phải nằm lại chiến trường xém chút
bị đàn voi rừng giẫm chết, may sao chúng chỉ ầm ầm kéo qua và ông đã
được đồng bào cứu sống. Tôi đã từng có lần tiếp xúc con gái diệu của
Thiếu tướng, cô này nhỏ bé, ít nói và nhan sắc cũng không mấy mặn mà,
bây giờ không rõ ở đâu, làm gì.
Thượng tá Lưu Công Tiền là một người có ngoại hình to béo, ông mang dáng dấp tinh nhanh, khôn ngoan của nông dân miền Bắc. Ông rất biết vị trí của mình trong Bộ tư lệnh, khi nói chuyện ông hay huấn thị theo phong cách bề trên (ngay cả khi đã nghỉ hưu), điều này ít nhiều làm cho nhiều cán bộ không thích ông, dẫn đến sự ra khỏi quân đội khá sớm của ông trong khi ông còn đang khỏe mạnh. Chính ủy Lưu Công Tiền nghỉ hưu trong cảnh sung túc do các con trai ông đem lại. Con ông có một người tên Dũng ngày trước làm thủy thủ tàu Vốt Cô, nhờ nhanh nhậy với thời cuộc, chăm chỉ chạy mánh nên kiếm chác kha khá, thường diện ngất trời, tiền tiêu thả tay. Người con cả của ông tên là Hưng xém chút bị chính quyền xử bắn vì dính vào vụ buôn Cocain, may ông làm đơn trình bày lý do ông là người có công với cách mạng nên con ông được ân xá, được giảm án từ tử hình xuống chung thân. Nhà ông gần nhà ông Phụng, trong khu tập thể Tổng cục chính trị số 3b, phố Ông Ích Khiêm, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Bộ tư lệnh 969 về bên Đảng thì chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy trung ương ( Bí thư Quân ủy trung ương chính là Tổng bí thư), điều này cho thấy vị thế quan trọng của Đảng ủy Bộ tư lệnh.
Về mặt Nhà nước thì Bộ tư lệnh trực thuộc trực tiếp Nhà nước, nó là một Cơ quan của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Về mặt chỉ huy tác chiến, và các trang thiết bị quân sự khác do Bộ Tổng tham mưu đảm nhiệm.
Về công tác chính trị thì do Tổng cục Chính trị làm.
Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) còn tăng cường hai đơn vị Công an làm nhiệm vụ trinh sát, bảo vệ các khu vực Lăng và phụ cận. Hai đơn vị ấy một đóng ở phía sau Bộ Tư lệnh Lăng, một đóng ngay phía sau nhà Quốc hội, được gọi chung là đoàn 375.
Bộ Tư lệnh Biên phòng cử một đơn vị đóng ngay phía sau Phủ chủ tịch, chỗ tiếp giáp với vườn Bách thảo để tiện cho việc tuần tra, kiểm soát.
Hồi mới thành lập, do thiếu quân nên toàn bộ quân số của Trung đoàn 144 bảo vệ thành Hà Nội được điều sang Bộ Tư lệnh 969. Sau này Phòng Quân lực có lấy quân bổ xung là những thanh niên trẻ đẹp, cao lớn trắng trẻo và khỏe mạnh để biên chế thành một Trung đoàn, gọi là Đoàn 275 (Thành lập tháng 2 năm 1975). Tiếng là Trung đoàn nhưng quân số thực tế chỉ vào khoảng một Tiểu đoàn. Số quân này được đào tạo công phu cả quân sự lẫn chính trị - tư tưởng do Trung tá Nguyễn Văn Sự làm chỉ huy.
Trung tá Sự người Hưng Yên, vóc dáng nhanh nhẹn, tác phong chỉnh tề, nhà ông hồi đầu những năm 1980 ở gần nhà ông Phụng trong khu Tập thể quân đội gọi là Trạm 354 ở cuối đường Lê Hồng Phong, Hà Nội. Trước đây, mỗi lần vợ con từ quê lên thăm ông là lại một lần cái xóm nhỏ bé chỗ nhà ông Phụng ít nhiều nhuốm chút mầu sắc của miền quê bắc Bộ. Bà vợ Trung tá Sự vốn nhan sắc không mấy mặn mòi thường hay bị ngợp trước mã ngoài cao to, oai vệ của chồng nên trong mắt bà chồng bà là đấng trượng phu hoàn mỹ nhất (Dù là sự thật nhiều lúc không phải như vậy). Do quá ngưỡng mộ chồng nên mỗi khi lên thăm chồng là bà hò la, quát tháo các con chẻ củi, mổ gà, nhặt rau để nhanh nhanh nấu bữa tối phục vụ đức lang quân, khiến cho cả xóm khói bay mù mịt, làm ta liên tưởng tới một đám mổ bò ở một miền quê nào đó...
Đoàn 275 như đã nói trên được tổ thành bởi những thanh niên khỏe mạnh, kỉ luật khắt khe và võ công từ khá trở lên. Thày dạy võ là một sĩ quan người dân tộc ít người tên là Vững đảm nhiệm. Võ sư Vững là một người đàn ông to khỏe, đẹp trai, hiền lành ít nói, võ công cao cường. Trước đây tôi đã một lần nếm thử một đòn nhè nhẹ của võ sư, truyện ấy như sau:
Vào một buổi chiều mùa hè, không rõ nguyên nhân gì, ông Phụng sai tôi vào Tư lệnh mời võ sư Vững ra nhà, hồi ấy ông Phụng còn ở Trạm 354 như đã kể trên. Hai chú cháu đi từ cổng Doanh trại ra đến gần phố Ngọc Hà, thì bỗng bất ngờ chú Vững nắm mấy ngón tay trái của tôi giật nhẹ một cái, tôi còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì thì bỗng phát hiện toàn bộ cánh tay trái của tôi đã bị tê liệt không còn cử động được nữa. Phải chờ đến lúc về đến nhà một lúc sau tôi mới dần cựa quậy được cánh tay theo ý mình. Tôi giận chú Vững lắm, trong bụng oán trách sao tôi ngưỡng mộ chú vậy mà chú nỡ ra tay hạ độc thủ trong khi tôi chẳng tội tình gì...Tôi đâu có ngờ thâm ý của những bậc kỳ tài. Những bậc ấy không bao giờ nói ra những khả năng đáng nể của họ, mà họ thường dùng hành động để chứng minh. Như chú Vững không bao giờ nói chú giỏi võ mà chỉ cần một động tác nhỏ là đã tỏ ra cho người khác biết tài năng của chú tới đâu rồi. Hồi ấy tôi ngu dại, tôi giận chú, chứ nếu tôi tinh khôn ra thì có lẽ đã học được mấy miếng võ hiểm ác ấy rồi...
Hằng ngày, cứ buổi chiều là lính Đoàn 275 ra sân tập võ.
Bộ tư lệnh 969 là một bộ phận quân đội quan trọng mà ngoài việc làm công tác bảo vệ thi hài Hồ chủ tịch và tiến hành các nghi thức đón tiếp khách trong nước và quốc tế nó còn đảm nhiệm luôn công tác bảo vệ. Với vị thế quân sự quan trọng như vậy nó có thể bảo vệ và phong tỏa Phủ chủ tịch, Phủ thủ tướng, Bộ Chính trị, Nhà Quốc hội, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và thành Hà Nội là nơi đặt đại bản doanh của Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kinh tế, Tổng cục Kỹ thuật, các Cục Tác chiến, Cục Tình báo quân đội, Cục Cơ yếu, Ban Cơ yếu Trung ương và v.v..
Trong thời kỳ chiến tranh Biên giới Việt - Trung, Bộ Tư lệnh có thêm nhiệm vụ tăng cường Phòng không đề phòng Không quân quân đội Trung Quốc trực tiếp oanh kích hoặc đổ bộ vào các cơ quan đầu não nói trên. Đường Hùng Vương được dự tính sẽ chuyển đổi thành một hệ thống đường băng dã chiến để Không quân quân đội nhân dân Việt Nam có thể nhanh chóng xuất kích. Hồi đó ông Phụng dắt tôi vào Bộ tư lệnh để cắt tóc và chỉ cho xem chiếc xe chỉ huy. Xe này gọi là xe Páp, do Liên Xô chế tạo, là xe bọc thép lội nước có trang bị pháo chống tăng, đại liên Phòng không 12 ly7 và máy thông tin. Xe có chân vịt để bơi như một chiếc xuồng máy, lại vừa cơ động khá nhanh trên mặt đất nhờ hàng loạt những bánh cao su đàn hồi. Như ta đã biết, sông Hồng về mùa lũ vô cùng hung dữ, nước ngập mêng mang, đối phương chỉ cần thả một quả bom phá vỡ đê là cả thành phố Hà Nội chìm trong bể nước, do vậy việc trang bị xe lội nước cho cấp chỉ huy là một quyết định sáng suốt. Xe này còn được các kỹ sư kết hợp với Nhà máy Cơ khí Hà Nội cải tiến lại để có thể chở được thi hài Hồ chủ tịch khi tình thế buộc phải di chuyển. Ngày ấy ông Phụng nắm cơ quan Tham mưu, trực tiếp điều hành các phương án tác chiến, bảo vệ và di chuyển các cơ quan đầu não khi xảy ra chiến tranh. Công việc bù đầu làm ông suy nhược, dẫn tới bục dạ dày và phải nhập Quân y viện 108 để các Bác sĩ tạm khâu lại.
Ngày ấy bác Hồ Pha và tôi hay vào viện để thăm ông. Ông Phụng cơ thể gầy yếu, nằm trên băng ca trong phòng riêng dành cho những quan chức cao cấp. Mũi ông có cắm một cái ống nhựa vào tận dạ dày, trên treo một bình huyết thanh cắm thẳng vào mạch máu, môi ông khô nứt bóc vẩy. Ông được cung cấp tiêu chuẩn ăn rất cao, thường thì ông hay để dành bánh trái hoa quả cho hai chị em mỗi khi vào thì cầm về mà ăn. Thời bấy giờ những thực phẩm ấy đối với chúng tôi thật chẳng khác nào những món cao lương mỹ vị làm tỉnh cả người. Tuy mới tỉnh được mấy ngày mà trên bụng ông Phụng các bác sĩ đã đặt cho ông một chiếc gạt tàn để ông hút thuốc. Ông Phụng là người nghiện thuốc nặng, mỗi ngày ông hút hết cả bao thuốc. Trước đây, sau ngày giải phóng Miền Nam năm 1975, ông thường được hút thuốc lá Ruby, chiến lợi phẩm thu được của quân đội Mỹ, lại hay sài bật lửa Gíp Bô cũng được chế tạo riêng cho quân đội Mỹ. Thuốc Ruby được chế tạo thô sơ bằng vỏ giấy mềm có in hình một tên lính Mỹ, và một lính VNCH đội nón. Tuy thuốc này mẫu mã không hào hoa cầu kỳ nhưng hút rất thơm ngon. Ngày ấy ông Phụng còn sài xi đánh giày hình con ó của quân đội Mỹ. Mỗi lần đi công tác ông ngồi trên xe Geep Mỹ, ngếch giầy lên cao, miệng phì phèo điếu Ruby trông rất ấn tượng. Còn bật lửa Gíp Bô thì được làm bằng thép không gỉ có khắc hình chiếc máy bay trực thăng và một tên lính Mỹ, nó rất thực dụng, và có thể cho lửa ở mọi thời tiết, ngay cả những lúc trời mưa gió. Sau này những tay săn hàng độc thường tìm mua loại bật lửa Gíp Bô từ thời chiến tranh Việt Nam với giá rất cao. Lúc ông Phụng còn nằm trên băng ca, khi bác Hồ Pha và tôi vào thăm thường thấy một cán bộ quân đội cắp cặp đứng nói chuyện với ông. Sau này tôi nghĩ rằng đó có thể là nhân viên của cơ quan An ninh Quân đội đến để thông báo tin tức hằng ngày với ông, trong đó có thể có cả kế hoạch di chuyển những cơ quan đầu não vào Tây Nguyên khi chiến tranh Việt - Trung có dấu hiệu tiến triển.
Về mặt địa lý, Bộ tư lệnh Lăng chia làm hai khu. Khu một đóng trong Nhà thờ Các tút, nằm giữa các đường Hùng Vương, Chùa một cột, Lê Hồng Phong và phố Ông Ích Khiêm. Bộ Tư lệnh lấy Thánh đường Công giáo làm nhà kho, và một tòa nhà rất đẹp để làm hội trường, là nơi họp Đảng, họp Đoàn... Nơi đây tôi đã từng được xem Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị biểu diễn văn nghệ, ngày ấy ca sĩ Doãn Tần còn rất trẻ, vừa học ở Liên Xô về và hát bài Kalinka rất ấn tượng. Tòa nhà này sau đó trong thời mở cửa đã được cho tay Hiệp, con bà Tí bia thuê để kinh doanh mặt hàng Bia hơi và các thức nhắm khác, gọi là nhà hàng 18 Lê Hồng Phong. Tay Hiệp và Bà Tí bia nhà ở ngõ 18 chợ Hòe Nhai, tôi đã nhiều lần đến nhà bà này, nhiều khi ăn cơm ở đấy, sau này tay Hiệp làm ăn phát đạt và trở nên giàu có cự phú. Ngày ấy, cô con gái bà Tí tên là Hà rất có cảm tình với tôi. Bác Chí Trung cũng đã có lần được tôi mời đến để chữa hộ bà Tí cái máy cát xét 777, bà Tí liên tục ngắm bàn tay bác Chí Trung mà luôn mồm khen sao mà bàn tay đẹp. Lúc sau chúng tôi đạp xe về, trên đường đi bác Chí thỉnh thoảng lại liếc xuống tay mình mà gật đầu liên tục.
Ngay đầu tòa nhà Hội trường này là phòng riêng của Thiếu tướng Trần Kinh Chi - Tư lệnh Bộ Tư lệnh 969 ( Được bổ nhiệm chính thức làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng do Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết) .
Thiếu tướng Trần Kinh Chi là một vị tướng đẹp của quân đội nhân dân Việt nam. Ông trông cao lớn bệ vệ, khuân mặt vuông chữ điền, nước da trắng hồng, ánh mắt tinh anh và nụ cười cởi mở, khoe hàm răng trắng đều đặn rất đắc nhân tâm. Tổ quán Thiếu tướng Trần Kinh Chi tại Tam Hợp, Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây, ông nguyên là cán bộ ngành Công An thời tiền khởi nghĩa. Sau này ông là Cục trưởng Cục Bảo vệ An ninh quân đội, ông là con người quyền lực, đáng gờm của bất kỳ một sĩ quan cao cấp nào trong quân đội thời bấy giờ. Với cương vị là Cục trưởng ông có thể theo dõi, đặt máy nghe trộm, gài tay chân vào các cơ quan, các quan chức trong quân đội.
Thượng tá Lưu Công Tiền là một người có ngoại hình to béo, ông mang dáng dấp tinh nhanh, khôn ngoan của nông dân miền Bắc. Ông rất biết vị trí của mình trong Bộ tư lệnh, khi nói chuyện ông hay huấn thị theo phong cách bề trên (ngay cả khi đã nghỉ hưu), điều này ít nhiều làm cho nhiều cán bộ không thích ông, dẫn đến sự ra khỏi quân đội khá sớm của ông trong khi ông còn đang khỏe mạnh. Chính ủy Lưu Công Tiền nghỉ hưu trong cảnh sung túc do các con trai ông đem lại. Con ông có một người tên Dũng ngày trước làm thủy thủ tàu Vốt Cô, nhờ nhanh nhậy với thời cuộc, chăm chỉ chạy mánh nên kiếm chác kha khá, thường diện ngất trời, tiền tiêu thả tay. Người con cả của ông tên là Hưng xém chút bị chính quyền xử bắn vì dính vào vụ buôn Cocain, may ông làm đơn trình bày lý do ông là người có công với cách mạng nên con ông được ân xá, được giảm án từ tử hình xuống chung thân. Nhà ông gần nhà ông Phụng, trong khu tập thể Tổng cục chính trị số 3b, phố Ông Ích Khiêm, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Bộ tư lệnh 969 về bên Đảng thì chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy trung ương ( Bí thư Quân ủy trung ương chính là Tổng bí thư), điều này cho thấy vị thế quan trọng của Đảng ủy Bộ tư lệnh.
Về mặt Nhà nước thì Bộ tư lệnh trực thuộc trực tiếp Nhà nước, nó là một Cơ quan của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Về mặt chỉ huy tác chiến, và các trang thiết bị quân sự khác do Bộ Tổng tham mưu đảm nhiệm.
Về công tác chính trị thì do Tổng cục Chính trị làm.
Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) còn tăng cường hai đơn vị Công an làm nhiệm vụ trinh sát, bảo vệ các khu vực Lăng và phụ cận. Hai đơn vị ấy một đóng ở phía sau Bộ Tư lệnh Lăng, một đóng ngay phía sau nhà Quốc hội, được gọi chung là đoàn 375.
Bộ Tư lệnh Biên phòng cử một đơn vị đóng ngay phía sau Phủ chủ tịch, chỗ tiếp giáp với vườn Bách thảo để tiện cho việc tuần tra, kiểm soát.
Hồi mới thành lập, do thiếu quân nên toàn bộ quân số của Trung đoàn 144 bảo vệ thành Hà Nội được điều sang Bộ Tư lệnh 969. Sau này Phòng Quân lực có lấy quân bổ xung là những thanh niên trẻ đẹp, cao lớn trắng trẻo và khỏe mạnh để biên chế thành một Trung đoàn, gọi là Đoàn 275 (Thành lập tháng 2 năm 1975). Tiếng là Trung đoàn nhưng quân số thực tế chỉ vào khoảng một Tiểu đoàn. Số quân này được đào tạo công phu cả quân sự lẫn chính trị - tư tưởng do Trung tá Nguyễn Văn Sự làm chỉ huy.
Trung tá Sự người Hưng Yên, vóc dáng nhanh nhẹn, tác phong chỉnh tề, nhà ông hồi đầu những năm 1980 ở gần nhà ông Phụng trong khu Tập thể quân đội gọi là Trạm 354 ở cuối đường Lê Hồng Phong, Hà Nội. Trước đây, mỗi lần vợ con từ quê lên thăm ông là lại một lần cái xóm nhỏ bé chỗ nhà ông Phụng ít nhiều nhuốm chút mầu sắc của miền quê bắc Bộ. Bà vợ Trung tá Sự vốn nhan sắc không mấy mặn mòi thường hay bị ngợp trước mã ngoài cao to, oai vệ của chồng nên trong mắt bà chồng bà là đấng trượng phu hoàn mỹ nhất (Dù là sự thật nhiều lúc không phải như vậy). Do quá ngưỡng mộ chồng nên mỗi khi lên thăm chồng là bà hò la, quát tháo các con chẻ củi, mổ gà, nhặt rau để nhanh nhanh nấu bữa tối phục vụ đức lang quân, khiến cho cả xóm khói bay mù mịt, làm ta liên tưởng tới một đám mổ bò ở một miền quê nào đó...
Đoàn 275 như đã nói trên được tổ thành bởi những thanh niên khỏe mạnh, kỉ luật khắt khe và võ công từ khá trở lên. Thày dạy võ là một sĩ quan người dân tộc ít người tên là Vững đảm nhiệm. Võ sư Vững là một người đàn ông to khỏe, đẹp trai, hiền lành ít nói, võ công cao cường. Trước đây tôi đã một lần nếm thử một đòn nhè nhẹ của võ sư, truyện ấy như sau:
Vào một buổi chiều mùa hè, không rõ nguyên nhân gì, ông Phụng sai tôi vào Tư lệnh mời võ sư Vững ra nhà, hồi ấy ông Phụng còn ở Trạm 354 như đã kể trên. Hai chú cháu đi từ cổng Doanh trại ra đến gần phố Ngọc Hà, thì bỗng bất ngờ chú Vững nắm mấy ngón tay trái của tôi giật nhẹ một cái, tôi còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì thì bỗng phát hiện toàn bộ cánh tay trái của tôi đã bị tê liệt không còn cử động được nữa. Phải chờ đến lúc về đến nhà một lúc sau tôi mới dần cựa quậy được cánh tay theo ý mình. Tôi giận chú Vững lắm, trong bụng oán trách sao tôi ngưỡng mộ chú vậy mà chú nỡ ra tay hạ độc thủ trong khi tôi chẳng tội tình gì...Tôi đâu có ngờ thâm ý của những bậc kỳ tài. Những bậc ấy không bao giờ nói ra những khả năng đáng nể của họ, mà họ thường dùng hành động để chứng minh. Như chú Vững không bao giờ nói chú giỏi võ mà chỉ cần một động tác nhỏ là đã tỏ ra cho người khác biết tài năng của chú tới đâu rồi. Hồi ấy tôi ngu dại, tôi giận chú, chứ nếu tôi tinh khôn ra thì có lẽ đã học được mấy miếng võ hiểm ác ấy rồi...
Hằng ngày, cứ buổi chiều là lính Đoàn 275 ra sân tập võ.
Bộ tư lệnh 969 là một bộ phận quân đội quan trọng mà ngoài việc làm công tác bảo vệ thi hài Hồ chủ tịch và tiến hành các nghi thức đón tiếp khách trong nước và quốc tế nó còn đảm nhiệm luôn công tác bảo vệ. Với vị thế quân sự quan trọng như vậy nó có thể bảo vệ và phong tỏa Phủ chủ tịch, Phủ thủ tướng, Bộ Chính trị, Nhà Quốc hội, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và thành Hà Nội là nơi đặt đại bản doanh của Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kinh tế, Tổng cục Kỹ thuật, các Cục Tác chiến, Cục Tình báo quân đội, Cục Cơ yếu, Ban Cơ yếu Trung ương và v.v..
Trong thời kỳ chiến tranh Biên giới Việt - Trung, Bộ Tư lệnh có thêm nhiệm vụ tăng cường Phòng không đề phòng Không quân quân đội Trung Quốc trực tiếp oanh kích hoặc đổ bộ vào các cơ quan đầu não nói trên. Đường Hùng Vương được dự tính sẽ chuyển đổi thành một hệ thống đường băng dã chiến để Không quân quân đội nhân dân Việt Nam có thể nhanh chóng xuất kích. Hồi đó ông Phụng dắt tôi vào Bộ tư lệnh để cắt tóc và chỉ cho xem chiếc xe chỉ huy. Xe này gọi là xe Páp, do Liên Xô chế tạo, là xe bọc thép lội nước có trang bị pháo chống tăng, đại liên Phòng không 12 ly7 và máy thông tin. Xe có chân vịt để bơi như một chiếc xuồng máy, lại vừa cơ động khá nhanh trên mặt đất nhờ hàng loạt những bánh cao su đàn hồi. Như ta đã biết, sông Hồng về mùa lũ vô cùng hung dữ, nước ngập mêng mang, đối phương chỉ cần thả một quả bom phá vỡ đê là cả thành phố Hà Nội chìm trong bể nước, do vậy việc trang bị xe lội nước cho cấp chỉ huy là một quyết định sáng suốt. Xe này còn được các kỹ sư kết hợp với Nhà máy Cơ khí Hà Nội cải tiến lại để có thể chở được thi hài Hồ chủ tịch khi tình thế buộc phải di chuyển. Ngày ấy ông Phụng nắm cơ quan Tham mưu, trực tiếp điều hành các phương án tác chiến, bảo vệ và di chuyển các cơ quan đầu não khi xảy ra chiến tranh. Công việc bù đầu làm ông suy nhược, dẫn tới bục dạ dày và phải nhập Quân y viện 108 để các Bác sĩ tạm khâu lại.
Ngày ấy bác Hồ Pha và tôi hay vào viện để thăm ông. Ông Phụng cơ thể gầy yếu, nằm trên băng ca trong phòng riêng dành cho những quan chức cao cấp. Mũi ông có cắm một cái ống nhựa vào tận dạ dày, trên treo một bình huyết thanh cắm thẳng vào mạch máu, môi ông khô nứt bóc vẩy. Ông được cung cấp tiêu chuẩn ăn rất cao, thường thì ông hay để dành bánh trái hoa quả cho hai chị em mỗi khi vào thì cầm về mà ăn. Thời bấy giờ những thực phẩm ấy đối với chúng tôi thật chẳng khác nào những món cao lương mỹ vị làm tỉnh cả người. Tuy mới tỉnh được mấy ngày mà trên bụng ông Phụng các bác sĩ đã đặt cho ông một chiếc gạt tàn để ông hút thuốc. Ông Phụng là người nghiện thuốc nặng, mỗi ngày ông hút hết cả bao thuốc. Trước đây, sau ngày giải phóng Miền Nam năm 1975, ông thường được hút thuốc lá Ruby, chiến lợi phẩm thu được của quân đội Mỹ, lại hay sài bật lửa Gíp Bô cũng được chế tạo riêng cho quân đội Mỹ. Thuốc Ruby được chế tạo thô sơ bằng vỏ giấy mềm có in hình một tên lính Mỹ, và một lính VNCH đội nón. Tuy thuốc này mẫu mã không hào hoa cầu kỳ nhưng hút rất thơm ngon. Ngày ấy ông Phụng còn sài xi đánh giày hình con ó của quân đội Mỹ. Mỗi lần đi công tác ông ngồi trên xe Geep Mỹ, ngếch giầy lên cao, miệng phì phèo điếu Ruby trông rất ấn tượng. Còn bật lửa Gíp Bô thì được làm bằng thép không gỉ có khắc hình chiếc máy bay trực thăng và một tên lính Mỹ, nó rất thực dụng, và có thể cho lửa ở mọi thời tiết, ngay cả những lúc trời mưa gió. Sau này những tay săn hàng độc thường tìm mua loại bật lửa Gíp Bô từ thời chiến tranh Việt Nam với giá rất cao. Lúc ông Phụng còn nằm trên băng ca, khi bác Hồ Pha và tôi vào thăm thường thấy một cán bộ quân đội cắp cặp đứng nói chuyện với ông. Sau này tôi nghĩ rằng đó có thể là nhân viên của cơ quan An ninh Quân đội đến để thông báo tin tức hằng ngày với ông, trong đó có thể có cả kế hoạch di chuyển những cơ quan đầu não vào Tây Nguyên khi chiến tranh Việt - Trung có dấu hiệu tiến triển.
Về mặt địa lý, Bộ tư lệnh Lăng chia làm hai khu. Khu một đóng trong Nhà thờ Các tút, nằm giữa các đường Hùng Vương, Chùa một cột, Lê Hồng Phong và phố Ông Ích Khiêm. Bộ Tư lệnh lấy Thánh đường Công giáo làm nhà kho, và một tòa nhà rất đẹp để làm hội trường, là nơi họp Đảng, họp Đoàn... Nơi đây tôi đã từng được xem Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị biểu diễn văn nghệ, ngày ấy ca sĩ Doãn Tần còn rất trẻ, vừa học ở Liên Xô về và hát bài Kalinka rất ấn tượng. Tòa nhà này sau đó trong thời mở cửa đã được cho tay Hiệp, con bà Tí bia thuê để kinh doanh mặt hàng Bia hơi và các thức nhắm khác, gọi là nhà hàng 18 Lê Hồng Phong. Tay Hiệp và Bà Tí bia nhà ở ngõ 18 chợ Hòe Nhai, tôi đã nhiều lần đến nhà bà này, nhiều khi ăn cơm ở đấy, sau này tay Hiệp làm ăn phát đạt và trở nên giàu có cự phú. Ngày ấy, cô con gái bà Tí tên là Hà rất có cảm tình với tôi. Bác Chí Trung cũng đã có lần được tôi mời đến để chữa hộ bà Tí cái máy cát xét 777, bà Tí liên tục ngắm bàn tay bác Chí Trung mà luôn mồm khen sao mà bàn tay đẹp. Lúc sau chúng tôi đạp xe về, trên đường đi bác Chí thỉnh thoảng lại liếc xuống tay mình mà gật đầu liên tục.
Ngay đầu tòa nhà Hội trường này là phòng riêng của Thiếu tướng Trần Kinh Chi - Tư lệnh Bộ Tư lệnh 969 ( Được bổ nhiệm chính thức làm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng do Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết) .
Thiếu tướng Trần Kinh Chi là một vị tướng đẹp của quân đội nhân dân Việt nam. Ông trông cao lớn bệ vệ, khuân mặt vuông chữ điền, nước da trắng hồng, ánh mắt tinh anh và nụ cười cởi mở, khoe hàm răng trắng đều đặn rất đắc nhân tâm. Tổ quán Thiếu tướng Trần Kinh Chi tại Tam Hợp, Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây, ông nguyên là cán bộ ngành Công An thời tiền khởi nghĩa. Sau này ông là Cục trưởng Cục Bảo vệ An ninh quân đội, ông là con người quyền lực, đáng gờm của bất kỳ một sĩ quan cao cấp nào trong quân đội thời bấy giờ. Với cương vị là Cục trưởng ông có thể theo dõi, đặt máy nghe trộm, gài tay chân vào các cơ quan, các quan chức trong quân đội.
Thiếu tướng Trần Kinh Chi
Tướng
Kinh Chi có một người cần vụ cao to, đẹp trai và trắng trẻo hàng ngày
lo việc cơm nước, giặt rũ, dọn dẹp cho ông. Hàng ngày tay này thường bê
mâm cơm gồm một liễn cơm bằng sứ có nắp đậy, một đĩa thịt lợn rang, một
đĩa trứng tráng, một đĩa rau muống, một bát nước rau hoặc canh và một lọ
thuỷ tinh đựng nước mắm có nút cũng bằng thủy tinh giống như những lọ
đựng hóa chất trong phòng thí nghiệm môn Hóa học. Tướng Kinh Chi thường
ngày đi làm bằng chiếc xe hơi Citroen đời mới, sang trọng do Chính phủ
Cộng hòa Pháp tặng, ông Phụng nhiều lần cũng sử dụng xe này để đi công
tác, tôi cũng từng được đi.
Tướng Kinh Chi là người nghiêm khắc, các bài huấn thị của ông thường rất dài khiến cho cấp dưới rất ngại tiếp xúc. Đại tá Nguyễn Văn Hanh, hồi ấy là Trưởng phòng Nghiệp vụ Cục Bảo vệ An ninh quân đội có khi bị Tướng Kinh Chi quạt cho cả một buổi chiều tới nỗi mờ cả mắt, phải xin nghỉ giải lao để lấy khăn mùi xoa ra lau kính rồi mới tiếp tục tiếp thu được. Bản thân ông Đinh Viết Phụng cũng từng ngồi nghe Tướng Kinh Chi huấn thị, sau đó nhân lúc Tướng Kinh Chi dừng lại để đi pha trà ông Phụng đã nhanh tay nhón luôn mấy điếu thuốc lá ngon để trên bàn, chẳng dè bị Tướng Kinh Chi phát hiện bảo: "Sao không cầm luôn cả bao, lấy mấy điếu thì lấy làm gì ". Chuyện này sau này ông Phụng còn nhắc mãi.
Thiếu tướng Trần Kinh Chi giữ chức vụ Tư lệnh kiêm Chính ủy Bộ tư lệnh cho đến năm 1979. Ông Đinh Viết Phụng nói là sau năm 1979 tướng Kinh Chi sang Tây Đức để làm công tác tố cáo tội ác chiến tranh nhưng không thành công, ông quay về Việt Nam nhận nhiệm vụ mới là Thứ trưởng Bộ Lao động và Thương Binh xã hội.
Tướng Kinh Chi là người nghiêm khắc, các bài huấn thị của ông thường rất dài khiến cho cấp dưới rất ngại tiếp xúc. Đại tá Nguyễn Văn Hanh, hồi ấy là Trưởng phòng Nghiệp vụ Cục Bảo vệ An ninh quân đội có khi bị Tướng Kinh Chi quạt cho cả một buổi chiều tới nỗi mờ cả mắt, phải xin nghỉ giải lao để lấy khăn mùi xoa ra lau kính rồi mới tiếp tục tiếp thu được. Bản thân ông Đinh Viết Phụng cũng từng ngồi nghe Tướng Kinh Chi huấn thị, sau đó nhân lúc Tướng Kinh Chi dừng lại để đi pha trà ông Phụng đã nhanh tay nhón luôn mấy điếu thuốc lá ngon để trên bàn, chẳng dè bị Tướng Kinh Chi phát hiện bảo: "Sao không cầm luôn cả bao, lấy mấy điếu thì lấy làm gì ". Chuyện này sau này ông Phụng còn nhắc mãi.
Thiếu tướng Trần Kinh Chi giữ chức vụ Tư lệnh kiêm Chính ủy Bộ tư lệnh cho đến năm 1979. Ông Đinh Viết Phụng nói là sau năm 1979 tướng Kinh Chi sang Tây Đức để làm công tác tố cáo tội ác chiến tranh nhưng không thành công, ông quay về Việt Nam nhận nhiệm vụ mới là Thứ trưởng Bộ Lao động và Thương Binh xã hội.
Căn phòng có những của sổ (nhà mười gian) là nơi ông Đinh Viết Phụng và Ba Đình từng ở
Mùa
đông năm 1976 tôi theo ông ra ở căn phòng khu nhà mười gian trong Bộ Tư
lệnh. Nhà này nằm ngay trục cắt giữa hai phố Ông Ích khiêm và phố Chùa
một cột. Trước khu nhà có một hàng phi lao xanh tươi trông rất đẹp mắt,
sau này chúng bị đốn đi để lấy chỗ cho một dãy hàng rào mới xây rất đẹp
mọc lên. Mỗi lần đi qua khu nhà mới xây khang trang đẹp đẽ tôi lại không
khỏi bùi ngùi nhớ tới căn phòng cũ với những nét kiến trúc mềm mại và
hàng cây phi lao xanh tươi ...
Phòng ngủ của ông Phụng một mặt trông ra vườn hoa phố Chùa Một Cột, một mặt trông ra phố Ông Ích Khiêm với những hàng cây cơm nguội già nua. Phòng ông Phụng có kê một giường cá nhân, một cái hòm, và một cái tủ đựng mấy thứ linh tinh. Đối diện với giường ngủ, phía tường bên kia tường có kê một cái bàn nhỏ làm góc học tập cho tôi. Nhiều khi tôi chỉ giả vờ chăm chú cặm cụi viết lách, nhưng thực tế là xem truyện, hoặc vẽ vời linh tinh ở dưới gầm bàn. Điều này tất nhiên không qua được mắt ông Phụng, nhiều khi ông cáu, bắt tôi phải lôi ra bằng hết các trò nghịch đang dấu trong đống sách vở, sau đó bắt tôi thu dọn sắp xếp lại cho gọn đống sách vở ấy làm tôi cực muốn khóc. Sau này tôi mới hiểu ông làm thế là đúng, là để rèn cho chúng ta đức tính kiên trì, cẩn thận, tạo tiền đề cho những thành công về sau.
Phòng ngoài, được ngăn bởi một bức vách bằng cót ép, ông Phụng kê cái bàn nhỏ, một phích nước sôi, bộ ấm chén để tiếp khách và trên tường có treo cái bảng nhỏ để ông học tiếng Nga. Thường mỗi khi đi làm về ông hay nhìn lên bảng mà đánh vần, ông ngại học lắm, ông cho là đọc chai cả mồm. Sau này mấy hôm chả thấy có chữ nghĩa gì được viết lên bảng, tôi dùng luôn bảng ấy để vẽ nhăng vẽ cuội cho sướng tay, thường thì tôi vẽ chim, vẽ hổ linh tinh, mấy chú sĩ quan cho là tôi có khiếu về họa.
Một buổi chiều cuối tuần bỗng ở đâu một cô chạc tuổi hai mươi đến thăm ông Phụng, tưởng ai hóa ra gái diệu của ông. Số là ông là cán bộ quân đội có chút ít kinh nghiệm, ông mau chóng nhận ra rằng phải cho đám con ông học hành tử tế, để sau này đỡ phải chịu thua chị kém em, cuộc sống đỡ vất vả. Ông liền gọi gái diệu ông lên để gửi đi học Trường Tài chính của quân đội đóng trên Phúc Yên. Gái diệu của ông Phụng tóc búi hai bên buộc bằng chun kiểu ngây thơ, mặc áo hoa, quần lụa đen, tay cầm nón quai đỏ (Ngày trước, nón quai đỏ hoặc hồng, trong thêu hình hoa hay bướm bằng len đang là mốt), chân đi dép nhựa, trông rất hiền lành (không biết có hiền thật không). Cũng phải kể thêm là ngày ấy trên có điều một chú trẻ đẹp tên Hảo để thỉnh thoảng lái xe cho ông đi công tác. Chú Hảo trắng trẻo, đẹp trai, ít nói hay cười nguyên người đất Cao Bằng. Hôm ấy bố con ông Phụng làm cơm liên hoan có mời chú Hảo. Chả là ông Phụng rất quý chú Hảo, ông ước mơ sau này chú trở thành con rể ông, về sau không biết chú Hảo bị điều đi đâu, giấc mơ của ông Phụng thế là không thành, và tất nhiên là cô con gái diệu của ông tiếc hùi hụi...
Hồi ấy bác Đinh Phê ở tạm một căn phòng trong Trạm 354 gần chợ Ngọc Hà với một cô bạn khác tôi không nhớ tên. Ngày nghỉ tôi hay dẫn bác đi lên Hồ Gươm chơi, để "ăn kem - xem tàu điện" như câu nói vui của dân Hà Nội thời bấy giờ. Quả thật chúng tôi có ăn kem, uống nước chanh thật, chứ tàu điện ngắm một lúc cũng thấy chán, bởi vì thực chất nó cũng chỉ là một cái hòm dài màu đỏ biết di chuyển không mấy hấp dẫn... Tôi cũng dẫn bác đi xem Triển lãm Giảng Võ. Chúng tôi đi vào buổi chiều mùa hè chói chang ánh nắng. Bác Đinh Phê đội nón kiểu ngây thơ, còn tôi đội mũ phớt đan bằng nan tre hay giang để che nắng. Hồi ấy đường ra triển lãm còn là đường đất nhỏ hẹp, hai bên là ruộng với những cọng cỏ lưa thưa. Triển lãm toạ lạc trên một đám đất ruộng tương đối rộng, nhằm trưng bày vũ khí khí tài của những bên tham chiến trong chiến tranh Việt - Mỹ. Tôi thì thích mê đi bởi những kỹ thuật mới lạ của nghành quân sự, còn bác Phê thì tư tưởng phân tán, chỉ ừ hữ cho qua chuyện, chắc còn mải tiếc cái vụ tay lái xe tên Hảo...hay ai chả biết. Hồi ấy cũng có lần ông đèo tôi bằng xe đạp ra xem triển lãm, cùng đi còn có chú Luận, chú Luận là công nhân viên Quốc phòng thuộc bộ phận xây dựng. Chú Luận hay gọi ông Phụng là thủ trưởng, xưng em, chú hay cười khoe chiếc răng bọc viền bằng bạc trông cũng có duyên. Sau khi nghỉ ngơi song, bác Phê được đi học Trường Tài chính trên Phúc Yên, thấy bảo cũng cần cù chịu khó nên các vị chỉ huy quý mến.Hồi ấy cũng có một thời gian bác ở một Cơ quan quân đội đóng tại Lý Nam Đế, tôi có lần cũng được vào đấy chơi.
Sau này ông Phụng và tôi mùa Thu năm 1979 có đánh xe lên thăm gái diệu của ông (bác Đinh Phê) trên Trường Tài chính trên thị xã Phúc Yên. Thị xã Phúc Yên hồi đó rất nhỏ, nghèo nàn và sơ sài. Chúng tôi đỗ xe và ăn trưa trong phòng khách của nhà trường, nơi có giàn mướp đang ra trái. Bác Đinh Phê hồi đó còn là học viên ra làm nhiệm vụ đun nước pha trà cho ông Phụng. Hiệu trưởng Trường Tài chính là một vị Thượng tá người Nghệ Tĩnh. Vị Hiệu trưởng này tính tình vui vẻ cởi mở ra tiếp ông Phụng, hai vị trò chuyện một lúc thì bác Đinh Phê bưng mâm cơm lên. Bữa cơm thời bao cấp, đất nước đang đầy dẫy khó khăn nên đơn giản, chả có gì. Tôi chỉ thấy một xoong quân dụng đựng cơm, một đĩa thịt lợn rang thái rõ là mỏng, một đĩa rau muống luộc, một bát nước rau có vắt chanh, và một bát nước mắm đại dương cũng vắt chanh. Sở dĩ được gọi là nước mắm đại dương là bởi nước mắm thật do quá khan hiếm nên được pha lỏng với muối và nước gạo rang cho có mầu vàng đánh lừa cảm giác. Hồi đó toàn quân và hầu hết các nghành, các trường trong toàn quốc xử dụng loại nước mắm này cho các bữa ăn hàng ngày. Sau bữa ăn, trong lúc ông Phụng, vị Hiệu trưởng nọ và bác Đinh Phê ngồi uống nước thì tôi chạy lên đồi chơi. Bên trái Ban giám hiệu, cách chừng trăm mét có một chiếc lô cốt do Pháp xây dựng nhằm án ngữ ngăn không cho Việt Minh lan tràn từ vùng Việt Bắc xuống miền trung du. Nghe nói nơi đây đã từng xảy ra những trận huyết chiến giữa Việt Minh và quân Pháp làm chết rất nhiều người của cả hai bên. Tôi tò mò chui vào những chiến hào sạch sẽ cao ngút đầu người, thường xuyên được rắc vôi bột để diệt vi khuẩn và trừ tử khí của những xác chết xưa kia còn phảng phất đâu đây. Tôi cẩn thận xem xét, hòng tìm lại những dấu vết còn lại, trong đầu còn mường tượng ra những cảnh lính Pháp vận động hùng hục trong chiến hào, những tiếng hô xung phong man dại, rồi những tiếng đại bác gầm rung chuyển mặt đất kèm theo ánh chớp loá mắt như trong những bộ phim chiến đấu mà tôi đã từng xem. Tôi còn nhặt được một viên đạn tiểu liên khá lớn, chắc của lính Pháp làm rớt lại trong các trận đánh hồi tháng 1 năm 1951 như đã nói trên. Viên đạn này tôi đem theo về Hà Nội để làm kỉ niệm, nó cáu bẩn và gỉ đồng xanh lè, sau này tôi mang ra đốt, tiếng nổ đinh tai. Hồi đó ông Phụng đã chuyển ra nhà ở Trạm 354 phố Lê Hồng Phong, cạnh nhà có khoảng sân dài và hẹp, có cây mít không biết được trồng từ bao giờ, chắc cũng từ hồi quân Pháp vẫn còn đóng ở Hà Nội. Tôi mang viên đạn này ra sân ấy, lấy dây thép cuốn quanh viên đạn, cắm viên đạn xuống đất cho chắc chắn, chĩa đầu đạn vào bức tường gạch trước nhà, ở dưới đốt một cây nến nhỏ, rồi tôi chui vào nhà, ngó cổ ra chờ đợi kết quả. Khoảng năm phút sau, viên đạn nóng lên và phát nổ, tôi mau chóng kiểm tra kết quả, và thấy đầu đạn chỉ làm chóc một miếng nhỏ bằng móng tay ở viên gạch của bức tường, tôi nhận ra rằng khi đầu đạn không nằm trong nòng súng thì sức mạnh không bao nhiêu.
Trở lại thời kỳ còn ở khu nhà mười gian năm 1977. Hồi đó gần phòng ông Phụng là xưởng mộc để làm đồ gỗ cho đơn vị. Chú Sắng và chú Vinh thường hay làm việc ở đây, cả ngày tôi thấy hai chú cặm cụi đục đẽo. Ông Phụng thừơng nhờ hai chú làm thước kẻ cho tôi, hồi đó tôi đi học ở Trường phổ thông cấp một Phan Chu Trinh trên đường Nguyễn Thái Học. Các bạn trong lớp thường dùng thước kẻ dài hai mươi phân sơn đỏ hay bán ở chợ, nay thấy tôi dùng thước kẻ làm bằng gỗ trắc, đánh véc ni thì lạ lắm. Thỉnh thoảng tôi hay được ông cho một thanh lương khô, tôi mang theo đến lớp, thỉnh thoảng tôi hay cắn cho bạn học một mẩu. Các bạn học phần nhiều là con thường dân, chỉ nghe nói tới lương khô chứ chưa từng được ăn, nay có dịp thưởng thức thì coi đó như những món sơn hào. Ở trong xưởng mộc chú Vinh là người vui tính, tuổi chừng hăm nhăm, tôi hay leo lên vai chú hay bắt chú cõng. Chú dậy tôi câu thơ:
Phòng ngủ của ông Phụng một mặt trông ra vườn hoa phố Chùa Một Cột, một mặt trông ra phố Ông Ích Khiêm với những hàng cây cơm nguội già nua. Phòng ông Phụng có kê một giường cá nhân, một cái hòm, và một cái tủ đựng mấy thứ linh tinh. Đối diện với giường ngủ, phía tường bên kia tường có kê một cái bàn nhỏ làm góc học tập cho tôi. Nhiều khi tôi chỉ giả vờ chăm chú cặm cụi viết lách, nhưng thực tế là xem truyện, hoặc vẽ vời linh tinh ở dưới gầm bàn. Điều này tất nhiên không qua được mắt ông Phụng, nhiều khi ông cáu, bắt tôi phải lôi ra bằng hết các trò nghịch đang dấu trong đống sách vở, sau đó bắt tôi thu dọn sắp xếp lại cho gọn đống sách vở ấy làm tôi cực muốn khóc. Sau này tôi mới hiểu ông làm thế là đúng, là để rèn cho chúng ta đức tính kiên trì, cẩn thận, tạo tiền đề cho những thành công về sau.
Phòng ngoài, được ngăn bởi một bức vách bằng cót ép, ông Phụng kê cái bàn nhỏ, một phích nước sôi, bộ ấm chén để tiếp khách và trên tường có treo cái bảng nhỏ để ông học tiếng Nga. Thường mỗi khi đi làm về ông hay nhìn lên bảng mà đánh vần, ông ngại học lắm, ông cho là đọc chai cả mồm. Sau này mấy hôm chả thấy có chữ nghĩa gì được viết lên bảng, tôi dùng luôn bảng ấy để vẽ nhăng vẽ cuội cho sướng tay, thường thì tôi vẽ chim, vẽ hổ linh tinh, mấy chú sĩ quan cho là tôi có khiếu về họa.
Một buổi chiều cuối tuần bỗng ở đâu một cô chạc tuổi hai mươi đến thăm ông Phụng, tưởng ai hóa ra gái diệu của ông. Số là ông là cán bộ quân đội có chút ít kinh nghiệm, ông mau chóng nhận ra rằng phải cho đám con ông học hành tử tế, để sau này đỡ phải chịu thua chị kém em, cuộc sống đỡ vất vả. Ông liền gọi gái diệu ông lên để gửi đi học Trường Tài chính của quân đội đóng trên Phúc Yên. Gái diệu của ông Phụng tóc búi hai bên buộc bằng chun kiểu ngây thơ, mặc áo hoa, quần lụa đen, tay cầm nón quai đỏ (Ngày trước, nón quai đỏ hoặc hồng, trong thêu hình hoa hay bướm bằng len đang là mốt), chân đi dép nhựa, trông rất hiền lành (không biết có hiền thật không). Cũng phải kể thêm là ngày ấy trên có điều một chú trẻ đẹp tên Hảo để thỉnh thoảng lái xe cho ông đi công tác. Chú Hảo trắng trẻo, đẹp trai, ít nói hay cười nguyên người đất Cao Bằng. Hôm ấy bố con ông Phụng làm cơm liên hoan có mời chú Hảo. Chả là ông Phụng rất quý chú Hảo, ông ước mơ sau này chú trở thành con rể ông, về sau không biết chú Hảo bị điều đi đâu, giấc mơ của ông Phụng thế là không thành, và tất nhiên là cô con gái diệu của ông tiếc hùi hụi...
Hồi ấy bác Đinh Phê ở tạm một căn phòng trong Trạm 354 gần chợ Ngọc Hà với một cô bạn khác tôi không nhớ tên. Ngày nghỉ tôi hay dẫn bác đi lên Hồ Gươm chơi, để "ăn kem - xem tàu điện" như câu nói vui của dân Hà Nội thời bấy giờ. Quả thật chúng tôi có ăn kem, uống nước chanh thật, chứ tàu điện ngắm một lúc cũng thấy chán, bởi vì thực chất nó cũng chỉ là một cái hòm dài màu đỏ biết di chuyển không mấy hấp dẫn... Tôi cũng dẫn bác đi xem Triển lãm Giảng Võ. Chúng tôi đi vào buổi chiều mùa hè chói chang ánh nắng. Bác Đinh Phê đội nón kiểu ngây thơ, còn tôi đội mũ phớt đan bằng nan tre hay giang để che nắng. Hồi ấy đường ra triển lãm còn là đường đất nhỏ hẹp, hai bên là ruộng với những cọng cỏ lưa thưa. Triển lãm toạ lạc trên một đám đất ruộng tương đối rộng, nhằm trưng bày vũ khí khí tài của những bên tham chiến trong chiến tranh Việt - Mỹ. Tôi thì thích mê đi bởi những kỹ thuật mới lạ của nghành quân sự, còn bác Phê thì tư tưởng phân tán, chỉ ừ hữ cho qua chuyện, chắc còn mải tiếc cái vụ tay lái xe tên Hảo...hay ai chả biết. Hồi ấy cũng có lần ông đèo tôi bằng xe đạp ra xem triển lãm, cùng đi còn có chú Luận, chú Luận là công nhân viên Quốc phòng thuộc bộ phận xây dựng. Chú Luận hay gọi ông Phụng là thủ trưởng, xưng em, chú hay cười khoe chiếc răng bọc viền bằng bạc trông cũng có duyên. Sau khi nghỉ ngơi song, bác Phê được đi học Trường Tài chính trên Phúc Yên, thấy bảo cũng cần cù chịu khó nên các vị chỉ huy quý mến.Hồi ấy cũng có một thời gian bác ở một Cơ quan quân đội đóng tại Lý Nam Đế, tôi có lần cũng được vào đấy chơi.
Sau này ông Phụng và tôi mùa Thu năm 1979 có đánh xe lên thăm gái diệu của ông (bác Đinh Phê) trên Trường Tài chính trên thị xã Phúc Yên. Thị xã Phúc Yên hồi đó rất nhỏ, nghèo nàn và sơ sài. Chúng tôi đỗ xe và ăn trưa trong phòng khách của nhà trường, nơi có giàn mướp đang ra trái. Bác Đinh Phê hồi đó còn là học viên ra làm nhiệm vụ đun nước pha trà cho ông Phụng. Hiệu trưởng Trường Tài chính là một vị Thượng tá người Nghệ Tĩnh. Vị Hiệu trưởng này tính tình vui vẻ cởi mở ra tiếp ông Phụng, hai vị trò chuyện một lúc thì bác Đinh Phê bưng mâm cơm lên. Bữa cơm thời bao cấp, đất nước đang đầy dẫy khó khăn nên đơn giản, chả có gì. Tôi chỉ thấy một xoong quân dụng đựng cơm, một đĩa thịt lợn rang thái rõ là mỏng, một đĩa rau muống luộc, một bát nước rau có vắt chanh, và một bát nước mắm đại dương cũng vắt chanh. Sở dĩ được gọi là nước mắm đại dương là bởi nước mắm thật do quá khan hiếm nên được pha lỏng với muối và nước gạo rang cho có mầu vàng đánh lừa cảm giác. Hồi đó toàn quân và hầu hết các nghành, các trường trong toàn quốc xử dụng loại nước mắm này cho các bữa ăn hàng ngày. Sau bữa ăn, trong lúc ông Phụng, vị Hiệu trưởng nọ và bác Đinh Phê ngồi uống nước thì tôi chạy lên đồi chơi. Bên trái Ban giám hiệu, cách chừng trăm mét có một chiếc lô cốt do Pháp xây dựng nhằm án ngữ ngăn không cho Việt Minh lan tràn từ vùng Việt Bắc xuống miền trung du. Nghe nói nơi đây đã từng xảy ra những trận huyết chiến giữa Việt Minh và quân Pháp làm chết rất nhiều người của cả hai bên. Tôi tò mò chui vào những chiến hào sạch sẽ cao ngút đầu người, thường xuyên được rắc vôi bột để diệt vi khuẩn và trừ tử khí của những xác chết xưa kia còn phảng phất đâu đây. Tôi cẩn thận xem xét, hòng tìm lại những dấu vết còn lại, trong đầu còn mường tượng ra những cảnh lính Pháp vận động hùng hục trong chiến hào, những tiếng hô xung phong man dại, rồi những tiếng đại bác gầm rung chuyển mặt đất kèm theo ánh chớp loá mắt như trong những bộ phim chiến đấu mà tôi đã từng xem. Tôi còn nhặt được một viên đạn tiểu liên khá lớn, chắc của lính Pháp làm rớt lại trong các trận đánh hồi tháng 1 năm 1951 như đã nói trên. Viên đạn này tôi đem theo về Hà Nội để làm kỉ niệm, nó cáu bẩn và gỉ đồng xanh lè, sau này tôi mang ra đốt, tiếng nổ đinh tai. Hồi đó ông Phụng đã chuyển ra nhà ở Trạm 354 phố Lê Hồng Phong, cạnh nhà có khoảng sân dài và hẹp, có cây mít không biết được trồng từ bao giờ, chắc cũng từ hồi quân Pháp vẫn còn đóng ở Hà Nội. Tôi mang viên đạn này ra sân ấy, lấy dây thép cuốn quanh viên đạn, cắm viên đạn xuống đất cho chắc chắn, chĩa đầu đạn vào bức tường gạch trước nhà, ở dưới đốt một cây nến nhỏ, rồi tôi chui vào nhà, ngó cổ ra chờ đợi kết quả. Khoảng năm phút sau, viên đạn nóng lên và phát nổ, tôi mau chóng kiểm tra kết quả, và thấy đầu đạn chỉ làm chóc một miếng nhỏ bằng móng tay ở viên gạch của bức tường, tôi nhận ra rằng khi đầu đạn không nằm trong nòng súng thì sức mạnh không bao nhiêu.
Trở lại thời kỳ còn ở khu nhà mười gian năm 1977. Hồi đó gần phòng ông Phụng là xưởng mộc để làm đồ gỗ cho đơn vị. Chú Sắng và chú Vinh thường hay làm việc ở đây, cả ngày tôi thấy hai chú cặm cụi đục đẽo. Ông Phụng thừơng nhờ hai chú làm thước kẻ cho tôi, hồi đó tôi đi học ở Trường phổ thông cấp một Phan Chu Trinh trên đường Nguyễn Thái Học. Các bạn trong lớp thường dùng thước kẻ dài hai mươi phân sơn đỏ hay bán ở chợ, nay thấy tôi dùng thước kẻ làm bằng gỗ trắc, đánh véc ni thì lạ lắm. Thỉnh thoảng tôi hay được ông cho một thanh lương khô, tôi mang theo đến lớp, thỉnh thoảng tôi hay cắn cho bạn học một mẩu. Các bạn học phần nhiều là con thường dân, chỉ nghe nói tới lương khô chứ chưa từng được ăn, nay có dịp thưởng thức thì coi đó như những món sơn hào. Ở trong xưởng mộc chú Vinh là người vui tính, tuổi chừng hăm nhăm, tôi hay leo lên vai chú hay bắt chú cõng. Chú dậy tôi câu thơ:
Thôi thôi tôi biết ông rồi
dài lưng đốm lưỡi ăn no lại nằm.
Tôi
thích câu thơ lắm, tôi mang luôn đến lớp để chế diễu các bạn. Sau này
tôi cũng trêu lại lại chú Vinh là " Mắt xếch hay tếch đi ăn". Câu này do
tôi chõm được ở trong truyện "Ông già trên núi chè tuyết và đứa cháu xa
quê". Câu chuyện kể về một cậ bé người Mèo vùng cao dãy núi Hoàng Liên
Sơn nhờ ơn Đảng, ơn Chính phủ mà được xuống Huyện đi học, những ngày đầu
do mắt chú ta xếch nên hay bị các bạn trêu như thế. Mới dầu chú Vinh
hơi sững sờ trước câu đùa hơi hỗn ấy, vì mắt chú xếch mà, sau tôi đùa
dai quá nên chú đâm giận tôi, chú tránh không nói chuyện với tôi nữa,
điều này làm tôi sau này cứ ân hận mãi. Chú Sắng thì hiền lành, cả ngày
chả nói năng câu nào, chỉ cười, tôi không thân chú lắm. Cái xưởng mộc ấy
do một chú đã đứng tuổi cai quản, tôi quên mất tên chú ấy. Chú rất vui
tính, hay cười, ông Phụng có vẻ rất quý chú. Chú hay nhấc bổng tôi lên,
bàn tay chú sần sùi chai sạn, rồi chú dạy tôi tiếng dân tộc Thái, như "
kin khẩu", chú cắt nghĩa "kin" là ăn, "khẩu" là cơm rồi chú bảo "kin nậm
neo là trèo lên dốc". Qua những trò đùa như vậy tôi đoán chú là người
mạn ngược, có vẻ chú là Dân công hỏa tuyến hồi còn đánh Điện Biên Phủ.
Một chú khác có dáng người nhỏ nhắn hay chơi đàn Măng đô lin và hát bài
"dân Liên Xô vui hát tự do", mãi sau này tôi vãn thấy chú hát có mỗi bài
này, nên tôi đâm nghi ngờ khả năng âm nhạc của chú. Sau này tôi không
còn biết hoặc nghe gì về những chú này nữa, thật đáng tiếc.
Cạnh xưởng mộc là một dãy phòng dành cho sỹ quan. Các giường tầng bằng sắt nằm san sát nhau, tường dán giấy báo, nội vụ ngăn nắp sạch sẽ. Chính từ nơi đây, những phong trào văn nghệ quần chúng đã đưa tới âm nhạc. Hồi đó tôi được nghe bài "Tình ca" do Thượng úy Nghĩa đơn ca khá hay, rồi các sĩ quan thuộc phòng Tham mưu đồng ca bài hát "Đêm Cha Lo" do chú Chế lĩnh xướng cũng hấp dẫn. Từ đó tôi luận: cuộc sống ngoài những thú vui là leo trèo nghịch ngợm ra còn có âm nhạc. Âm nhạc là một món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với mọi dân tộc trên thế giới. Dù có rất nhiều dân tộc lạc hậu không có chữ viết, không có một nền triết học hoàn chỉnh, không có thể chế rõ ràng...nhưng lại có âm nhạc, cho dù nhạc ấy còn sơ sài. Âm nhạc có quyền lực, âm nhạc là triết học, là thuyết khách và là ngoại giao ?. Sở dĩ về sau tôi có chơi được đàn, hiểu được nhạc lý cũng là do ông Phụng tạo điều kiện. Vào những năm 1978, ông Phụng chuyển ra nhà riêng tại Trạm 354 của Quân đội để ở cho tiện sinh hoạt. Thấy tôi thích nghe nhạc ông Phụng đã vào Bộ Tư lệnh xin cho tôi một cây đàn Măng đô lin. Chao ôi tôi chưa từng bao giờ nhận được món quà nào quý giá như vậy, mặc dù ông Phụng rất hay tặng đồ chơi cho tôi. Vào những năm Thống nhất đất nước, ông cùng đoàn cán bộ vào Sài Gòn làm nhiệm vụ tiếp quản và đã mua cho tôi biết bao nhiêu là đồ chơi. Ông mua cho tôi một lô những là xe tăng chạy bằng dây cót, xe ô tô, binh lính, tàu bè các loại bằng nhựa, toàn những thứ mà những đứa trẻ khác có nằm mơ cũng không có được. Ông mua cho tôi chiếc cặp sách mầu xanh nước biển có may những hình chim thú nằm dưới những miếng ny lông rất đẹp. Hồi ấy đại đa số học sinh còn dùng túi may bằng vải để đựng sách vở, nên khi thấy tôi sách chiếc cặp đẹp thế thì trầm trồ khen ngợi. Ông lại mua cho tôi chiếc quần bằng vải si có khoá phéc măng tuya rất diện. Thỉnh thoảng ông bảo chú Thao chở tôi đi học. Chú Thao là một Trung uý trẻ tuổi, chưa vợ và đẹp trai có tiếng. Ngày ấy cô giáo Chủ nhiệm là cô Cậy rất trẻ đẹp nên ông Phụng tâm lý lắm, rất hay tạo điều kiện cho cấp dưới tìm hiểu các cô. Lại nói về chuyện cây đàn Măng đô lin mà tôi nhận được mới đẹp làm sao. Tám sợi dây thép nằm san sát nhau trên những hàng phím đồng sáng choang, mỗi lần gảy lên chúng lại phát ra những am thanh réo rắt. Mà nước véc ni thì khéo, bóng nhoáng mới thơm làm sao. Có một chú còn tặng tôi một quyển sách in toàn nhạc cách mạng như "Cùng nhau đi hồng binh", "Đoàn vệ quốc quân" v.v...Cứ mỗi buổi tối là tôi hay dò dẫm chơi đàn, thấy tôi chơi tạm được ông Phụng thích lắm. Thấy tôi thích đàn bầu, ông Phụng lại kỳ cạch lấy vầu trên tận Đá Chông mang về phơi khô, cạo sạch lớp vỏ xanh, lấy giấy giáp đánh cho nhẵn thín rồi làm đàn bầu cho tôi chơi. Nguyên nhân của sự kiện này là vì tôi rất thích nghe bản "Vì Miền Nam" chơi bằng đàn bầu hay được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam. Có lần tôi còn được xem một chú trong Bộ Tư lệnh chơi bài này rất hay trong một lần biểu diễn Văn nghệ quần chúng. Tôi ngồi kì cạch mãi mà cũng chỉ chơi được phọt phẹt vài đoạn nên đâm nản, tôi không tập đàn bầu nữa. Thế rồi một sự kiện trọng đại đã đến. Cái sự trọng đại ấy nó thế này.
Vào một ngày đầu hè năm 1981 hay 1982 gì đấy, bác Đoàn xuân Thuỷ sau lần về thăm quê Thái Bình có mang lên một cây đàn Ghi ta. Tôi ngạc nhiên lắm, cứ trố mắt ra nhìn, rồi bắt đầu đề cao cảnh giác. Tôi nghĩ "cụ này thường ngày chỉ nghĩ đến chuyện làm ăn, đánh quả, sao hôm nay lại xanh đỏ thế không biết" rồi tôi sợ...Nhưng bác Thuỷ cười bảo:
- Thằng chú nó ở nhà chẳng chịu làm ăn, tối ngày chỉ bật bông mà nào có ra bài gì. Đã mấy lần ông cụ định mang đàn ấy chẻ ra làm đóm hút thuốc lào, anh thấy cậu thích chơi đàn nên mang lên cho cậu!
Hai tiếng "cho cậu" nghe sao mà êm ái, mà ngọt ngào, thế là cuối cùng thì niềm mơ ước của tôi cũng thành hiện thực. Nói chẳng giấu gì chứ hồi ấy tôi đã hơi nhơn nhớn, bắt đầu chán đàn Mang đô lin, mơ ước sở hữu một cây Ghi ta nhưng ngại không dám xin tiền ông. Thế là suốt cả mùa hè tôi không đi chơi đâu, tôi xin tiền ông để mua sách nhạc bán ở chợ, rồi tôi đi mượn những sách dậy Ghi ta về để vừa đọc vừa thực hành. Tôi nghiền ngẫm dùi mài cuốn dạy xướng âm và nhạc lí của ông La Thăng, tôi tập kỹ thuật dạy Ghi ta của Carolin và Caccatsi...
Vậy là suốt cả mùa hè tôi chui lên căn gác xép thấp lè tè trong cái nóng lắm lúc lên tới gần 40 độ mà tập tành, mà nghiên cứu. Buổi tối trước lúc đi ngủ tôi lại đọc sách để tập lĩnh hội. Rồi tôi chơi được đàn mà không qua một thày, một trường lớp nào cả, hay chỉ học lỏm mỗi cách lên dây đàn mà thôi.
Không giống như ông Tước, là tay chơi nhạc cổ khá sành điệu, ông Phụng tỏ ra là một ca sĩ xoàng. Ông không thuộc một bài hát nào, mỗi khi hứng lên ông múa may mấy ngón tay theo điệu chèo cổ, nhưng lại hát những bài hát của quân đội như "Cùng nhau đi hồng binh", "Bao chiến sĩ anh hùng" ...câu của bài hát nọ lại xọ sang bài hát kia, rồi ông ngắc ngứ hát bừa. Cứ mỗi lần như vậy chúng tôi lại cười như nắc nẻ trước điệu bộ vụng về của ông...
Đằng sau ngôi nhà này là khu nhà khách với kiến trúc rất đẹp và sang trọng. Nó bị ngăn cách với khu nhà mười gian bằng một bức tường thấp cao ngang đầu người, và một vườn nhãn sai trĩu quả. Sau khu nhà này tôi thường hay thơ thẩn chơi một mình, lấy cỏ ấu nuôi trong lọ nước để bắt trước các nhà bác học trong phòng thí nghiệm, lấy dây thép và que sắt để giả làm đường dây cao thế... và lấy trộm tiền của ông để mua truyện Hai vạn dặm dưới biển ở chợ Ngọc Hà. Mới đầu ông Phụng tỏ ý hơi bực, sau thấy truyện hay quá lại đâm ra tán thưởng hành vi của ông con, bởi vì nếu không có vụ ăn trộm tiền để mua truyện thì ông không có cơ hội nào để xem một cuốn sách hay như thế.
Trong Bộ Tư lệnh còn có một khu bếp, một phòng ăn lớn và một số nhà ở cho sỹ quan các Phòng Ban. Trong sân trước đây các tu sĩ trồng nhiều vải và nhãn, có một số cây hồng ngâm quả ăn rất ngon. Tôi thường không ít lần trèo lên mái nhà hái quả, lấy tăm chọc nhiều lỗ vào quả hồng cho chảy bớt nhựa chát rồi đem ngâm vào bể tắm công cộng, mấy ngày sau đem lên ăn rất giòn và ngọt.
Ở giữa, chạy song song với Thánh đường và Hội trường Bộ Tư lệnh là một dãy nhà lớn dành cho các sĩ quân ở, ngay đầu nhà là một phòng lớn, khang trang. Phòng này ông Phụng và tôi vào khoảng mùa thu năm 1977 đến đầu năm 1978 đã từng ở đây. Sau giờ làm việc của các sĩ quan, tôi hay lân la vào phòng các chú để chơi, các chú rất quý, hay cho tôi xem truyện tranh, hoặc là họa báo. Phải công nhận rằng là cán bộ thời ấy có đạo đức, tác phong đứng đắn chỉnh tề không chê vào đâu được. Dãy phòng này nằm giữa những hàng cây vải rợp bóng mát và sai trĩu quả. Ngay sát Hội trường có một bàn bóng bàn, hồi bé tôi hay chơi bóng bàn với chú Mượi, người Phú thọ. Chú Mượi người béo đậm, hay cười, chất phác, rát đáng mến. Chú Mượi nghỉ phục viên sớm, nhà rất nghèo. Sau này có lần tình cờ trên một số báo điện tử, tôi có thấy người ta đăng tin về chú, trong dịp chú nhận Nhà tình nghĩa do Bộ Tư lệnh trao tặng.
Có lẽ người gây án tượng ngộ nghĩnh nhất là chú Đ người Phú Thọ. Chú Đ người vậm vạp, khỏe mạnh, trắng trẻo rất có tướng đàn ông, đặc biệt là đôi mắt sáng quắc là cái cười ngoác ra rất tự nhiên và dễ gây thiện cảm. Hồi nhỏ chú hay đèo tôi bằng xe đạp để đi thăm một gia đình ở ngoài bãi sông Hồng,.Đến bây giờ tôi không còn nhớ rõ nhà người quen chú ở đâu nữa. Tôi đứng sau gác ba ga, hai tay bám vào vai chú mặc cho chú lượn vòng vèo dễ đến bốn mươi lăm phút thì dừng trước một ngôi nhà một gian bằng thân cây luồng, lợp giấy dầu. Ở giữa nhà treo một cái đèn quả lê ánh sáng đỏ cành cạch vì yếu điện, hồi ấy Hà Nội thiếu điện trầm trọng. Trần ngôi nhà ấy nhà lụp xụp ám khói, rồi lại giống như biết bao nhiêu nhà nghèo thành thị khác hồi bấy giờ là cả nhà có độc chiếc gường đôi cũ kĩ, dăm bộ quần áo cũ treo trên thép sát vách tường. Rồi lại chiếc bàn con, vài chiếc ghế đẩu, cái ấm tích đựng chè hay vối gì đấy, vài cái kiềng kê làm bếp chỗ góc nhà. Chủ nhà là hai người đàn bà một già, một trẻ. Tôi đoán người trẻ là con gái của bà già nọ. Chủ nhà ít lời, hiền lành và hay cười mời chúng tôi uống nước trong bát ăn cơm bằng sứ. Chú Đ đỡ bát nước thong thả uống rồi đưa đà chuyện trò với hai người đàn bà. Tôi không uống nước vì tôi chả ưa gì cái anh nước chè hay nuớc vối chát sít kia, tôi chỉ thích nước chanh quả pha đường, nếu không thì dùng nước đun sôi để nguội. Tôi ngồi im mắt hết nhìn lên những cây luồng trên tràn nhà lại theo dõi những con thạch sùng trần trụi chuyển động khéo léo rình bắt muỗi xung quanh bóng đèn. Chú và tôi ngồi chơi cỡ tiếng rưỡi đồng hồ rồi lên xe đi về. Cuộc thăm viếng nọ chả để lại trong tôi dư âm đặc biệt nào, mà theo chú thì chú đang làm công tác dân vận. Cặp từ "dân vận" tôi không hiểu mấy, tôi chỉ lờ mờ hiểu rằng đó là một công tác quan trọng của quân đội nhằm thắt chặt quan hệ quân dân như đài hay nói.
Bẵng đi một thời gian có đến năm, sáu năm, lúc đó tôi đã đi học cấp ba thì nghe hung tin về chú: chú bị người ta bắn. Ai bắn, làm sao mà bắn..????
Tìm hiểu thì hóa ra vì chú hăng hái làm công tác dân vận quá nên có quan hệ yêu đương nhân tình, nhân bánh với vợ một tay sĩ quan quân đội đang chiến đấu trên biên giới phía bắc. Tay sĩ quan hay tin liền xin nghỉ phép về Hà Nội gọi chú Đ ra nói chuyện cho rõ phải quấy. Chả biết hai bên giải quyết thế nào mà kết thúc cuộc đàm phán tay kia cho chú một phát súng ngắn vào đùi gọi là để kỉ niệm cho nhớ về sau chừa mặt những thằng lính chiến ra, đừng léng phép. Cũng may viên đạn xuyên qua phần mềm nên chú không bị cưa chân. Sự thể đã rõ ràng, chú phạm luật hôn nhân, vi phạm kỉ luật Đảng. quân đội, chú phải bị kỉ luật. Có kẻ ác mồm còn bảo:
-Mẹ! nó đi đánh nhau biên giới, ông ở nhà cơm no rửng mỡ đú đởn với vợ nó, nó xẻng ông là phải. Thằng ấy là còn hiền đấy, phải tôi á cứ là xin tí tiết. Léng phéng...
- Ông này dở hơi! thế tôi hỏi ông nhá, tự dưng đem đến cho nó thì có thằng nào lại bảo rằng không. Cái ngữ kia, chồng vừa đi vắng đã ngứa nghề, cứ là cho đem trôi sông...
Chú Đ bị kỷ luật, tập tễnh ra thăm ông Phụng, ông cười độ lượng, hai thầy trò không nói năng gì nhiều, chỉ lặng lẽ hút thuốc và trao đổi bâng quơ. Cả hai đều biết tình thế chú không thể cứu vãn , việc ở lại phục vụ quân đội là hoàn toàn vô kế khả thi. Chú chỉ còn cách duy nhất là nghỉ ngơi tĩnh dưỡng chờ ngày có quyết định nghỉ phục viên. Và chú về địa phương ít ngày sau đó...
Một thời gian hơn hai mươi năm sau tôi gặp lại chú trong dịp lễ 49 ngày ông Phụng mất. Tôi ở CHLB Đức về, còn chú thì từ Phú Thọ xuống viếng ông. Tôi giật mình vì sau bao nhiêu năm xa cách chú vẫn giữ được phong độ trẻ trung, vẫn nụ cười ngoác ra, vẫn đôi mắt sáng long lanh khi nói chuyện với phụ nữ. Tôi đồ rằng khi về địa phương chú vẫn đã và đang tiếp tục làm rất tốt công tác..."dân vận" ở địa phương.
Cũng vào thời điểm những năm 1976 - 1977 gì đó tôi có dịp được vào Cục tình báo Quân đội Bộ Tổng Tham mưu - tiền thân của Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng ngày nay chơi.
Đó là một buổi chiều mùa thu nắng dìu dịu dễ chịu, Phòng Hậu cần Bộ tư lệnh Lăng có buổi thi đấu giao hữu bóng chuyền với đội bóng chuyền Cục Tình báo. Khi đội bóng lên xe để đi vào Cục Tình báo, ông Phụng dẫn tôi ra xe bảo:
- Các chú cho nó đi với!
Thế là các chú kéo tôi lên chiếc xe com măng ca do Ru Ma Ni chế tạo để đi vào Cục Tình báo (khu vực Hoàng thành bây giờ) qua đường Cửa Nam. Cục Tình báo Quân đội Bộ Tổng tham mưu nằm trong khu A, bên cạnh các cục Tác chiến, Cục Cơ yếu là các cơ quan quan trọng nhất của toàn quân. Ai muốn vào khu A cần phải có giấy phép đặc biệt do Bộ Tổng tham mưu cấp. Tôi không có giấy phép nên khi qua cổng vệ binh gác các chú lính ấn đầu tôi sát xuống gầm xe để khỏi bị lộ, thế là tôi lọt được vào cơ quan khét tiếng của quân đội nhân dân Việt Nam.
Tôi đứng xem trận bóng truyền giữa Bộ Tư lệnh Lăng với đội tuyển bóng truyền Cục 2. Trận bóng diễn ra sau giờ làm việc nên tôi thấy đại đa số các cán bộ Cục 2 mặc thường phục đứng xem. Thường phục hồi ấy của các sĩ quan chủ yếu là quần bộ đội, áo phin Nam Định hay vải pô pơ lin trắng, đi dép cao su đúc hoặc dép rọ do Trung Quốc trang bị. Mọi người nhìn tôi rất đỗi ngạc nhiên, vì không hiểu sao ở cơ quan bí mật của Bộ Tổng Tham mưu, nơi được canh phòng cẩn mật đến con muỗi cũng khó lọt vào tự dưng xuất hiện thằng bé ngây ngô con cái nhà ai đến đây. Xong rồi mọi sự cũng chóng qua, vì ai cũng hiểu rằng đã vào được tới đây thì chắc cũng là con cháu của một cán bộ nào, quyết chẳng phải quân gian...
Bẵng đi một thời gian dài, tôi lại có dịp trở lại nơi đây. Số là thế này.
Vào hồi mùa hè những năm 1988, khi đang là hạ sĩ quan phụ trách tuyên huấn cho một nhà trường thuộc Bộ Tổng Tham mưu tôi được cử đi học ở Cục 2. Buổi sáng, khi đã ăn sáng xong thì Đại tá Nguyễn Văn Hóa người Quảng Nam hồi đó là Bí thư Đảng ủy nhà trường gọi tôi lên giao nhiệm vụ. Đại tá nói:
- Với tinh thần đổi mới đất nước để theo kịp những nước phát triển trên thế giới, quân đội ta cũng phải đổi mới theo. Quân đội ta có chủ trương nâng cao chất lượng của các quân nhân, mà giảm về số lượng theo phương châm "quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa". Do vậy cậu sẽ được cử đi học một lớp kẻ chữ, vẽ tranh cổ động và viết báo do Cục Tình báo tổ chức. Cậu sẽ được một cán bộ Cục Cơ yếu ra nhận dạng rồi đón vào trong thành bằng đường Của Bắc, cán bộ ấy sẽ dẫn cậu vào Cục Tình báo, cậu sẽ học ở đây.
Tôi nhận mệnh lệnh, về nhà chuẩn bị quân tư trang, ngay chiều hôm ấy lên tài vụ thanh toán tiêu chuẩn gồm tiền, gạo. Thanh toán Xong về chơi bóng bàn trước nhà Ban Huấn luyện, đi ăn tối mở TV phục vụ cán bộ, học viên nhà trường rồi đi ngủ.
Sáng hôm sau khoảnng 7 - 8 giờ tôi đã có mặt tại bến xe thị xã Phủ Lý, lấy vé lên đường về Hà Nội. Tôi về trạm 66 của Bộ Quốc phòng để trình diện rồi sang Của Bắc, đứng chờ ít phút đã thấy có một Đại úy ra đưa tôi đi. Lòng vòng một đoạn, qua một cổng có đặt hai khẩu thần công thời Nguyễn thì chúng tôi tới hội trường của CụcTình báo.
Tiếng là đại bản danh của nghành Tình báo quân đội danh tiếng nhưng cơ sở hạ tầng quả thật tồi tàn, nếu so với Bộ Tư lệnh Lăng thì không bằng cái nhà kho. Hội trường nhỏ bé, nền đổ vữa rẻ tiền lồi lõm, không trần, lợp tôn chơ ra những cái sà bằng sắt han gỉ. Phía sát tường của hội trường có bục cũng xây luôn cho tiện, trên treo cái bảng. Tôi đoán hội trường có sức chứa không quá 200 người. Một viên Trung úy lên giảng về cách kẻ chữ, vẽ tranh cổ động một vài buổi. Vài buổi sau lại một viên sĩ quan khác giảng dạy về nghệ thuật viết báo. Chúng tôi hí húi ghi ghi, chép chép trong yên lặng trật tự không ai trao đổi với ai. Điều này chả phải do chúng tôi có ý thức giữ gìn trật tự tốt đến thế, mà do chưa quen biết nhau mấy. Lớp học chỉ trên dưới hai chục người, phần lớn đến từ những cơ quan khác nhau của Bộ Tổng Tham mưu, mới lần đầu gặp nhau nên chưa có điều kiện làm quen.
Tranh thủ giờ nghỉ giải lao, tôi sang phòng Tài vụ của bác Phan Chí Hiếu. Bác Phan Chí Hiếu hồi ấy là Trưởng phòng Tài vụ của Cục. Thấy tôi sang bác hay mở ngăn kéo cho tôi vài điếu thước lá ngoại do người ta mời. Bác không hút thuốc nên nếu có ai mời thuốc là bác cất trong ngăn kéo để cho những ai mà bác quý. Thấy có nguồn thuốc hút nên tôi chịu khó sang thăm hỏi liên tục, được tiếng là ngoan hiền lễ phép...Sau này khi Cục Tình báo Bộ Tổng Tham mưu được nâng cấp lên thành Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng thì bác Phan Chí Hiếu trở thành Vụ trưởng Vụ Tài chính của Tổng cục.
Hồi ấy thỉnh thoảng tôi còn hay gặp Trung tá Đinh Hải Long, cháu gọi ông Đinh Viết Phụng bằng chú. Chúng tôi phải gọi Trung tá Đinh Hải Long là anh theo vai vế, con của anh Long lại gọi tôi bằng chú. Anh Đinh Hải Long ưa mặc quần kaki Liên Xô xanh nhạt, áo sơ mi ngắn tay sạch sẽ, tóc cắt cao ráo cười nói chân tình cởi mở, xoàng xĩnh và giản dị. Tôi đồ rằng có lẽ anh chỉ làm nhân viên văn thư gì đó thôi nên mới chan hòa giản dị thế, ai dè hỏi ra anh là Trưởng ban Cán bộ mật của Cục Tình báo có kinh không.
Tôi còn gặp bác Đoàn Xuân Thủy trong Ban Cơ yếu Trung ương lúc bấy giờ cũng đóng trong thành Hà Nội, gần các Cục Tình báo, Cơ yếu, Tác chiến...Bác tươi cười nhìn tôi rất đỗi ngạc nhiên đầy thắc mắc ý rằng tôi - tay lính quèn sao vào được đây?
Tôi theo học lớp kẻ vẽ, viết báo được một tuần thì được lệnh của thủ trưởng nhà trường tiếp tục ở lại thành Hà Nội để học lớp viết kịch. Thế là tôi khăn gói quả mướp đồ đạc quân trang lỉnh kỉnh theo tay sĩ quan tiếp tân của Bộ Quốc phòng sang trạm 66 đóng gần cửa Bắc. Chúng tôi vào phòng khách của trạm để nghe Đại tá Nguyễn Văn Bình - Trưởng phòng Tuyên huấn Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu nói chuyện và giao nhiệm vụ. Đại ý vị Đại tá ấy nói rằng theo sự lãng đạo của Đảng, quân đội có chủ trương nâng cao trình độ nhận thức, nâng cải thiện đời sống văn hóa - tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ nên cử các đồng chí đi học. Sau khi đã tiếp thụ kiến thức, các đồng chí sẽ là những hạt nhân phong trào trong các đơn vị cơ sở của Bộ Tổng Tham mưu. Bộ Quốc phòng sẽ tạo điều kiện tốt nhất để các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ và v.v...Cùng học đợt này còn có cô Vinh - Trung úy người Nghệ An, xinh đẹp chưa chồng, vốn cũng là người cùng trường Mật mã với tôi.
Sau khi họp song tôi theo tay sĩ quan hành chính đi nhận phòng. Tôi được nghỉ ngay tại đại bản doanh của Bộ Quốc phòng, nơi tiếp giáp đường Hoàng Diệu. Căn nhà này được thực dân Pháp xây dựng rất bề thế và kiên cố từ năm 1907 với những bức tường rất dày, những của sổ và cửa chớp bằng gỗ lim sơn mầu xanh lá cây rất đẹp. Tôi được phân một giường của sĩ quan cao cấp làm bằng gỗ cẩm lai, đánh véc ni bóng nhẫy. Ở đầu giường tôi luôn có phích nước nóng do các nữ nhân viên của trạm mang đến cho chúng tôi dùng trà. Căn nhà này có hành lang khá rộng lát gạch men đỏ sậm từ thời Pháp thuộc, lúc nào cũng được lau chùi quét dọn sạch sẽ. Ở mỗi ô cửa ngoài hành lang đều có thêm một lớp của lửng cũng do Pháp thiếu kế để ngăn cái nắng gay gắt của mặt trời buổi chiều xứ nhiệt đới. Phía giáp bờ tường cạnh đường Hoàng Diệu là một khu vườn dài và hẹp mọc toàn những cây sấu cổ thụ có tuổi đời chắc cũng tương đương như ngôi nhà. Người Pháp không ngu khi chọn giống sấu để trồng cạnh ngôi nhà. Thứ nhất là cây sấu không bao giờ có sâu dóm hay bọ nẹt, thứ hai là cây sấu không quá to nên không dễ đổ về mùa mưa bão nhiệt đới làm hư hại ngôi nhà. Hồi ấy đang độ cuối hè đầu thu nên quả sấu vào độ chín ngả mầu vàng. Chiều chiều chúng tôi hay ra vườn ném cho sấu rụng để ăn.
Thường thường buổi sáng chúng tôi dậy sớm theo chế độ của quân nhân, nghĩa là tập thể dục, làm vệ sinh cá nhân và ăn sáng. Đúng 8 giờ sáng chúng tôi tập hợp ở hội trường của Trạm để làm quen với các thầy, cô giáo và các anh chị em học viên khác rồi bắt tay vào học. Thầy chính dạy môn viết kịch bản là Đại tá Vũ Dũng Minh - tác giả của vở "Đôi mắt" nổi tiếng hồi chiến tranh chống Mỹ. Thày có bộ dạng khá lập dị và cổ quái trong bộ quân phục bạc mầu của lính trơn. Lúc nào áo thày cũng bỏ trong quần, thắt lưng cẩn thận. Quanh năm thày đi đôi dép cao su cũ kĩ, chắc có lẽ cũng từ thời thày đi thực tế với quân giải phóng ở Trường Sơn. Thầy đội một chiếc mũ tai bèo có buông quai cẩn thận, lại kéo nút cho sát vào cằm như thể sắp sửa phải vào trận đánh. Một tay thầy sách tay nải trong có đựng tài liệu giảng dạy do thày tự biên soạn, còn tay kia thày sách điếu cày. Trong đoàn giáo viên còn có thày Hoàng Hà, cô Hồng Hà giảng về nhạc kịch, đạo cụ và thày Đinh Xuân Dũng giảng về Chân - Thiện - Mỹ trong nghệ thuật. Chúng tôi học hành và cố gắng nên thày Vũ Dũng Minh rất vui, các thày cô khác cũng hài lòng nên đem hết nhiệt tình mà truyền lại cho chúng tôi những kiến thức cơ bản của nghệ thuật sân khấu. Cuối khóa học chúng tôi phải viết kịch bản để cho thày kiểm tra. Kết cục cô Vinh đỗ ưu tú, tôi đỗ loại giỏi.
Hồi ấy tuy tuy nền kinh tế Việt Nam đang ở vào thời kỳ vô cùng tồi tệ, song Trạm 66 Bộ Quốc phòng đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để chúng tôi học tập. Chúng tôi được ăn ở theo chế độ của sĩ quan cao cấp. Hàng ngày tôi đi ăn ở khu nhà ăn khá sang trọng ở phía cuối trạm. Thức ăn tôi thường dùng là cơm gạo trắng đựng trong những liễn sứ khá đẹp có nắp đậy. Trên bàn bầy sẵn một chiếc bát sứ Hải Dương, một đôi đũa, một tấm giấy lau miệng mầu hồng nhạt. Thức ăn khá thịnh soạn gồm một đĩa thịt rang hoặc xào, mấy khoanh trứng tráng, một đĩa rau xào hoạc luộc, một bát nước rau, đôi khi là canh, một bát nước mắm ngon có mấy lát ớt cùng chanh. Ăn xong chúng tôi bỏ ra vòi nước bên cạnh để rửa miệng, bát đĩa rếch để lại nguyên trên bàn, nhà bếp của Trạm có trách nhiệm thu rửa.
Sau khi ngủ trưađộ khoảng một tiếng đồng hồ chúng tôi lại bắt tay vào học cho đến khoảng bốn rưỡi, năm giờ chiều rồi nghỉ. Chúng tôi thường lang thang trong Trạm để mua bia hơi uống. Cũng có khi ngồi tụ tập trà lá với mấy tay sĩ quan mới quen cùng lớp. Những sĩ quan trẻ này hầu hết chưa có gia đình nên tán chuyện vô tư cởi mở, thi thoảng lại cười rộ lên thu hút sự chú ý của mấy cô phục vụ.
Nguyên Trạm 66 tuyển được một dàn các cô cần vụ rất trắng trẻo và xinh đẹp, đó là các cô Dung, cô Hường, cô Tường... Các cô này ngoài việc phục vụ các việc lặt vặt cho các vị Tướng các cô còn lo việc lau quét nhà cửa, lấy phích nước nóng cho chúng tôi dùng trà. Lắm khi tôi hay nhờ vả các cô đi mua bia hộ, vì các cô không cần xếp hàng như những người hác. Tôi chơi thân với cô Dung, cô trông nhỏ nhắn, hai má trắng hồng với hai bím tóc trông xinh xắn như búp bê. Chả hiểu sao cô này trông thấy tôi lần đầu là có thiện cảm ngay. Thường thường có lúc vào buổi chiều cô hay đến ngó tôi nơi tôi nghỉ, chúng tôi nói chuyện lăng nhăng, lắm khi cô cố tình trêu tức để cho tôi đuổi...Có hôm Trạm mời đoàn kịch nói của Tổng cục Chính trị đến diễn vở "Tôi và chúng ta" của Lưu Quang Vũ trong sân trạm, cô đến rủ riêng tôi cùng đi. Chúng tôi ngồi sát bên nhau mà xem kịch, thi thoảng cô giật tay tôi, nhờ khêu hộ cái gai ở chân. Cô này cả ngày đi guốc cao, lại ở giữa Thủ đô sao giẫm phải gai hở Giời.Vợ chồng Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh cũng ngồi trên bao lơn để xem kịch. Đại tướng Lê Đức Anh hồi ấy còn khá trẻ, tướng mạo phương phiu phúc hậu, thỉnh thoảng ông lại mỉm cười nhìn xuống chúng tôi bằng một bên mắt giả hơi hiêng hiếng...Nguyên trong Trạm 66 có hai vị Tướng ở, đó là Thượng tướng - Trưởng ban biên giới Đàm Quang Trung và Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh nói trên. Nhà của Thượng tướng Đàm Quang Trung là một ngôi biệt thự xây theo lối hiện đại đối diện với biệt thự của Đại tướng Lê Đức Anh.
Sau khi tốt nghiệp khóa học, Trạm 66 chiêu đãi chúng tôi một bữa tiệc thịnh soạn tại biệt thự của Thượng tướng Đàm Quang Trung. Chúng tôi kê bàn ăn ngay chân cầu thang tầng trệt, cạnh bể nước nhân tạo uốn quanh chân cầu thang. Bữa tiệc hôm đó có món tiết canh dê do đầu bếp trạm chế biến khá ngon và lạ miệng. Chúng tôi dùng lẫn cả bia lẫn rượu, đốt thuốc khói um, cười nói hỉ xả. Sau khi ăn xong lại được người phục vụ bưng ra từng khay trà và kẹo ăn tráng miệng. Buổi chiều chúng tôi báo cắt cơm, sửa soạn hành lý rồi chuẩn bị quay về đơn vị.
Cũng thời kì đó tôi có nghe kể về vụ tai nạn ô tô hi hữu diễn ra ở Hải Dương đã cướp đi mạng sống của nghệ sĩ chèo tài ba Như Hoa và nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Rồi tôi nghe kể về những cái chết bát thường của hai vị tướng tài là Đại tướng Lê Trọng Tấn và Đại tướng Hoàng Văn Thái - niềm ngưỡng mộ của cánh lính trẻ chúng tôi bay giờ đã không còn nữa.
Cạnh xưởng mộc là một dãy phòng dành cho sỹ quan. Các giường tầng bằng sắt nằm san sát nhau, tường dán giấy báo, nội vụ ngăn nắp sạch sẽ. Chính từ nơi đây, những phong trào văn nghệ quần chúng đã đưa tới âm nhạc. Hồi đó tôi được nghe bài "Tình ca" do Thượng úy Nghĩa đơn ca khá hay, rồi các sĩ quan thuộc phòng Tham mưu đồng ca bài hát "Đêm Cha Lo" do chú Chế lĩnh xướng cũng hấp dẫn. Từ đó tôi luận: cuộc sống ngoài những thú vui là leo trèo nghịch ngợm ra còn có âm nhạc. Âm nhạc là một món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với mọi dân tộc trên thế giới. Dù có rất nhiều dân tộc lạc hậu không có chữ viết, không có một nền triết học hoàn chỉnh, không có thể chế rõ ràng...nhưng lại có âm nhạc, cho dù nhạc ấy còn sơ sài. Âm nhạc có quyền lực, âm nhạc là triết học, là thuyết khách và là ngoại giao ?. Sở dĩ về sau tôi có chơi được đàn, hiểu được nhạc lý cũng là do ông Phụng tạo điều kiện. Vào những năm 1978, ông Phụng chuyển ra nhà riêng tại Trạm 354 của Quân đội để ở cho tiện sinh hoạt. Thấy tôi thích nghe nhạc ông Phụng đã vào Bộ Tư lệnh xin cho tôi một cây đàn Măng đô lin. Chao ôi tôi chưa từng bao giờ nhận được món quà nào quý giá như vậy, mặc dù ông Phụng rất hay tặng đồ chơi cho tôi. Vào những năm Thống nhất đất nước, ông cùng đoàn cán bộ vào Sài Gòn làm nhiệm vụ tiếp quản và đã mua cho tôi biết bao nhiêu là đồ chơi. Ông mua cho tôi một lô những là xe tăng chạy bằng dây cót, xe ô tô, binh lính, tàu bè các loại bằng nhựa, toàn những thứ mà những đứa trẻ khác có nằm mơ cũng không có được. Ông mua cho tôi chiếc cặp sách mầu xanh nước biển có may những hình chim thú nằm dưới những miếng ny lông rất đẹp. Hồi ấy đại đa số học sinh còn dùng túi may bằng vải để đựng sách vở, nên khi thấy tôi sách chiếc cặp đẹp thế thì trầm trồ khen ngợi. Ông lại mua cho tôi chiếc quần bằng vải si có khoá phéc măng tuya rất diện. Thỉnh thoảng ông bảo chú Thao chở tôi đi học. Chú Thao là một Trung uý trẻ tuổi, chưa vợ và đẹp trai có tiếng. Ngày ấy cô giáo Chủ nhiệm là cô Cậy rất trẻ đẹp nên ông Phụng tâm lý lắm, rất hay tạo điều kiện cho cấp dưới tìm hiểu các cô. Lại nói về chuyện cây đàn Măng đô lin mà tôi nhận được mới đẹp làm sao. Tám sợi dây thép nằm san sát nhau trên những hàng phím đồng sáng choang, mỗi lần gảy lên chúng lại phát ra những am thanh réo rắt. Mà nước véc ni thì khéo, bóng nhoáng mới thơm làm sao. Có một chú còn tặng tôi một quyển sách in toàn nhạc cách mạng như "Cùng nhau đi hồng binh", "Đoàn vệ quốc quân" v.v...Cứ mỗi buổi tối là tôi hay dò dẫm chơi đàn, thấy tôi chơi tạm được ông Phụng thích lắm. Thấy tôi thích đàn bầu, ông Phụng lại kỳ cạch lấy vầu trên tận Đá Chông mang về phơi khô, cạo sạch lớp vỏ xanh, lấy giấy giáp đánh cho nhẵn thín rồi làm đàn bầu cho tôi chơi. Nguyên nhân của sự kiện này là vì tôi rất thích nghe bản "Vì Miền Nam" chơi bằng đàn bầu hay được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam. Có lần tôi còn được xem một chú trong Bộ Tư lệnh chơi bài này rất hay trong một lần biểu diễn Văn nghệ quần chúng. Tôi ngồi kì cạch mãi mà cũng chỉ chơi được phọt phẹt vài đoạn nên đâm nản, tôi không tập đàn bầu nữa. Thế rồi một sự kiện trọng đại đã đến. Cái sự trọng đại ấy nó thế này.
Vào một ngày đầu hè năm 1981 hay 1982 gì đấy, bác Đoàn xuân Thuỷ sau lần về thăm quê Thái Bình có mang lên một cây đàn Ghi ta. Tôi ngạc nhiên lắm, cứ trố mắt ra nhìn, rồi bắt đầu đề cao cảnh giác. Tôi nghĩ "cụ này thường ngày chỉ nghĩ đến chuyện làm ăn, đánh quả, sao hôm nay lại xanh đỏ thế không biết" rồi tôi sợ...Nhưng bác Thuỷ cười bảo:
- Thằng chú nó ở nhà chẳng chịu làm ăn, tối ngày chỉ bật bông mà nào có ra bài gì. Đã mấy lần ông cụ định mang đàn ấy chẻ ra làm đóm hút thuốc lào, anh thấy cậu thích chơi đàn nên mang lên cho cậu!
Hai tiếng "cho cậu" nghe sao mà êm ái, mà ngọt ngào, thế là cuối cùng thì niềm mơ ước của tôi cũng thành hiện thực. Nói chẳng giấu gì chứ hồi ấy tôi đã hơi nhơn nhớn, bắt đầu chán đàn Mang đô lin, mơ ước sở hữu một cây Ghi ta nhưng ngại không dám xin tiền ông. Thế là suốt cả mùa hè tôi không đi chơi đâu, tôi xin tiền ông để mua sách nhạc bán ở chợ, rồi tôi đi mượn những sách dậy Ghi ta về để vừa đọc vừa thực hành. Tôi nghiền ngẫm dùi mài cuốn dạy xướng âm và nhạc lí của ông La Thăng, tôi tập kỹ thuật dạy Ghi ta của Carolin và Caccatsi...
Vậy là suốt cả mùa hè tôi chui lên căn gác xép thấp lè tè trong cái nóng lắm lúc lên tới gần 40 độ mà tập tành, mà nghiên cứu. Buổi tối trước lúc đi ngủ tôi lại đọc sách để tập lĩnh hội. Rồi tôi chơi được đàn mà không qua một thày, một trường lớp nào cả, hay chỉ học lỏm mỗi cách lên dây đàn mà thôi.
Không giống như ông Tước, là tay chơi nhạc cổ khá sành điệu, ông Phụng tỏ ra là một ca sĩ xoàng. Ông không thuộc một bài hát nào, mỗi khi hứng lên ông múa may mấy ngón tay theo điệu chèo cổ, nhưng lại hát những bài hát của quân đội như "Cùng nhau đi hồng binh", "Bao chiến sĩ anh hùng" ...câu của bài hát nọ lại xọ sang bài hát kia, rồi ông ngắc ngứ hát bừa. Cứ mỗi lần như vậy chúng tôi lại cười như nắc nẻ trước điệu bộ vụng về của ông...
Đằng sau ngôi nhà này là khu nhà khách với kiến trúc rất đẹp và sang trọng. Nó bị ngăn cách với khu nhà mười gian bằng một bức tường thấp cao ngang đầu người, và một vườn nhãn sai trĩu quả. Sau khu nhà này tôi thường hay thơ thẩn chơi một mình, lấy cỏ ấu nuôi trong lọ nước để bắt trước các nhà bác học trong phòng thí nghiệm, lấy dây thép và que sắt để giả làm đường dây cao thế... và lấy trộm tiền của ông để mua truyện Hai vạn dặm dưới biển ở chợ Ngọc Hà. Mới đầu ông Phụng tỏ ý hơi bực, sau thấy truyện hay quá lại đâm ra tán thưởng hành vi của ông con, bởi vì nếu không có vụ ăn trộm tiền để mua truyện thì ông không có cơ hội nào để xem một cuốn sách hay như thế.
Trong Bộ Tư lệnh còn có một khu bếp, một phòng ăn lớn và một số nhà ở cho sỹ quan các Phòng Ban. Trong sân trước đây các tu sĩ trồng nhiều vải và nhãn, có một số cây hồng ngâm quả ăn rất ngon. Tôi thường không ít lần trèo lên mái nhà hái quả, lấy tăm chọc nhiều lỗ vào quả hồng cho chảy bớt nhựa chát rồi đem ngâm vào bể tắm công cộng, mấy ngày sau đem lên ăn rất giòn và ngọt.
Ở giữa, chạy song song với Thánh đường và Hội trường Bộ Tư lệnh là một dãy nhà lớn dành cho các sĩ quân ở, ngay đầu nhà là một phòng lớn, khang trang. Phòng này ông Phụng và tôi vào khoảng mùa thu năm 1977 đến đầu năm 1978 đã từng ở đây. Sau giờ làm việc của các sĩ quan, tôi hay lân la vào phòng các chú để chơi, các chú rất quý, hay cho tôi xem truyện tranh, hoặc là họa báo. Phải công nhận rằng là cán bộ thời ấy có đạo đức, tác phong đứng đắn chỉnh tề không chê vào đâu được. Dãy phòng này nằm giữa những hàng cây vải rợp bóng mát và sai trĩu quả. Ngay sát Hội trường có một bàn bóng bàn, hồi bé tôi hay chơi bóng bàn với chú Mượi, người Phú thọ. Chú Mượi người béo đậm, hay cười, chất phác, rát đáng mến. Chú Mượi nghỉ phục viên sớm, nhà rất nghèo. Sau này có lần tình cờ trên một số báo điện tử, tôi có thấy người ta đăng tin về chú, trong dịp chú nhận Nhà tình nghĩa do Bộ Tư lệnh trao tặng.
Có lẽ người gây án tượng ngộ nghĩnh nhất là chú Đ người Phú Thọ. Chú Đ người vậm vạp, khỏe mạnh, trắng trẻo rất có tướng đàn ông, đặc biệt là đôi mắt sáng quắc là cái cười ngoác ra rất tự nhiên và dễ gây thiện cảm. Hồi nhỏ chú hay đèo tôi bằng xe đạp để đi thăm một gia đình ở ngoài bãi sông Hồng,.Đến bây giờ tôi không còn nhớ rõ nhà người quen chú ở đâu nữa. Tôi đứng sau gác ba ga, hai tay bám vào vai chú mặc cho chú lượn vòng vèo dễ đến bốn mươi lăm phút thì dừng trước một ngôi nhà một gian bằng thân cây luồng, lợp giấy dầu. Ở giữa nhà treo một cái đèn quả lê ánh sáng đỏ cành cạch vì yếu điện, hồi ấy Hà Nội thiếu điện trầm trọng. Trần ngôi nhà ấy nhà lụp xụp ám khói, rồi lại giống như biết bao nhiêu nhà nghèo thành thị khác hồi bấy giờ là cả nhà có độc chiếc gường đôi cũ kĩ, dăm bộ quần áo cũ treo trên thép sát vách tường. Rồi lại chiếc bàn con, vài chiếc ghế đẩu, cái ấm tích đựng chè hay vối gì đấy, vài cái kiềng kê làm bếp chỗ góc nhà. Chủ nhà là hai người đàn bà một già, một trẻ. Tôi đoán người trẻ là con gái của bà già nọ. Chủ nhà ít lời, hiền lành và hay cười mời chúng tôi uống nước trong bát ăn cơm bằng sứ. Chú Đ đỡ bát nước thong thả uống rồi đưa đà chuyện trò với hai người đàn bà. Tôi không uống nước vì tôi chả ưa gì cái anh nước chè hay nuớc vối chát sít kia, tôi chỉ thích nước chanh quả pha đường, nếu không thì dùng nước đun sôi để nguội. Tôi ngồi im mắt hết nhìn lên những cây luồng trên tràn nhà lại theo dõi những con thạch sùng trần trụi chuyển động khéo léo rình bắt muỗi xung quanh bóng đèn. Chú và tôi ngồi chơi cỡ tiếng rưỡi đồng hồ rồi lên xe đi về. Cuộc thăm viếng nọ chả để lại trong tôi dư âm đặc biệt nào, mà theo chú thì chú đang làm công tác dân vận. Cặp từ "dân vận" tôi không hiểu mấy, tôi chỉ lờ mờ hiểu rằng đó là một công tác quan trọng của quân đội nhằm thắt chặt quan hệ quân dân như đài hay nói.
Bẵng đi một thời gian có đến năm, sáu năm, lúc đó tôi đã đi học cấp ba thì nghe hung tin về chú: chú bị người ta bắn. Ai bắn, làm sao mà bắn..????
Tìm hiểu thì hóa ra vì chú hăng hái làm công tác dân vận quá nên có quan hệ yêu đương nhân tình, nhân bánh với vợ một tay sĩ quan quân đội đang chiến đấu trên biên giới phía bắc. Tay sĩ quan hay tin liền xin nghỉ phép về Hà Nội gọi chú Đ ra nói chuyện cho rõ phải quấy. Chả biết hai bên giải quyết thế nào mà kết thúc cuộc đàm phán tay kia cho chú một phát súng ngắn vào đùi gọi là để kỉ niệm cho nhớ về sau chừa mặt những thằng lính chiến ra, đừng léng phép. Cũng may viên đạn xuyên qua phần mềm nên chú không bị cưa chân. Sự thể đã rõ ràng, chú phạm luật hôn nhân, vi phạm kỉ luật Đảng. quân đội, chú phải bị kỉ luật. Có kẻ ác mồm còn bảo:
-Mẹ! nó đi đánh nhau biên giới, ông ở nhà cơm no rửng mỡ đú đởn với vợ nó, nó xẻng ông là phải. Thằng ấy là còn hiền đấy, phải tôi á cứ là xin tí tiết. Léng phéng...
- Ông này dở hơi! thế tôi hỏi ông nhá, tự dưng đem đến cho nó thì có thằng nào lại bảo rằng không. Cái ngữ kia, chồng vừa đi vắng đã ngứa nghề, cứ là cho đem trôi sông...
Chú Đ bị kỷ luật, tập tễnh ra thăm ông Phụng, ông cười độ lượng, hai thầy trò không nói năng gì nhiều, chỉ lặng lẽ hút thuốc và trao đổi bâng quơ. Cả hai đều biết tình thế chú không thể cứu vãn , việc ở lại phục vụ quân đội là hoàn toàn vô kế khả thi. Chú chỉ còn cách duy nhất là nghỉ ngơi tĩnh dưỡng chờ ngày có quyết định nghỉ phục viên. Và chú về địa phương ít ngày sau đó...
Một thời gian hơn hai mươi năm sau tôi gặp lại chú trong dịp lễ 49 ngày ông Phụng mất. Tôi ở CHLB Đức về, còn chú thì từ Phú Thọ xuống viếng ông. Tôi giật mình vì sau bao nhiêu năm xa cách chú vẫn giữ được phong độ trẻ trung, vẫn nụ cười ngoác ra, vẫn đôi mắt sáng long lanh khi nói chuyện với phụ nữ. Tôi đồ rằng khi về địa phương chú vẫn đã và đang tiếp tục làm rất tốt công tác..."dân vận" ở địa phương.
Cũng vào thời điểm những năm 1976 - 1977 gì đó tôi có dịp được vào Cục tình báo Quân đội Bộ Tổng Tham mưu - tiền thân của Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng ngày nay chơi.
Đó là một buổi chiều mùa thu nắng dìu dịu dễ chịu, Phòng Hậu cần Bộ tư lệnh Lăng có buổi thi đấu giao hữu bóng chuyền với đội bóng chuyền Cục Tình báo. Khi đội bóng lên xe để đi vào Cục Tình báo, ông Phụng dẫn tôi ra xe bảo:
- Các chú cho nó đi với!
Thế là các chú kéo tôi lên chiếc xe com măng ca do Ru Ma Ni chế tạo để đi vào Cục Tình báo (khu vực Hoàng thành bây giờ) qua đường Cửa Nam. Cục Tình báo Quân đội Bộ Tổng tham mưu nằm trong khu A, bên cạnh các cục Tác chiến, Cục Cơ yếu là các cơ quan quan trọng nhất của toàn quân. Ai muốn vào khu A cần phải có giấy phép đặc biệt do Bộ Tổng tham mưu cấp. Tôi không có giấy phép nên khi qua cổng vệ binh gác các chú lính ấn đầu tôi sát xuống gầm xe để khỏi bị lộ, thế là tôi lọt được vào cơ quan khét tiếng của quân đội nhân dân Việt Nam.
Tôi đứng xem trận bóng truyền giữa Bộ Tư lệnh Lăng với đội tuyển bóng truyền Cục 2. Trận bóng diễn ra sau giờ làm việc nên tôi thấy đại đa số các cán bộ Cục 2 mặc thường phục đứng xem. Thường phục hồi ấy của các sĩ quan chủ yếu là quần bộ đội, áo phin Nam Định hay vải pô pơ lin trắng, đi dép cao su đúc hoặc dép rọ do Trung Quốc trang bị. Mọi người nhìn tôi rất đỗi ngạc nhiên, vì không hiểu sao ở cơ quan bí mật của Bộ Tổng Tham mưu, nơi được canh phòng cẩn mật đến con muỗi cũng khó lọt vào tự dưng xuất hiện thằng bé ngây ngô con cái nhà ai đến đây. Xong rồi mọi sự cũng chóng qua, vì ai cũng hiểu rằng đã vào được tới đây thì chắc cũng là con cháu của một cán bộ nào, quyết chẳng phải quân gian...
Bẵng đi một thời gian dài, tôi lại có dịp trở lại nơi đây. Số là thế này.
Vào hồi mùa hè những năm 1988, khi đang là hạ sĩ quan phụ trách tuyên huấn cho một nhà trường thuộc Bộ Tổng Tham mưu tôi được cử đi học ở Cục 2. Buổi sáng, khi đã ăn sáng xong thì Đại tá Nguyễn Văn Hóa người Quảng Nam hồi đó là Bí thư Đảng ủy nhà trường gọi tôi lên giao nhiệm vụ. Đại tá nói:
- Với tinh thần đổi mới đất nước để theo kịp những nước phát triển trên thế giới, quân đội ta cũng phải đổi mới theo. Quân đội ta có chủ trương nâng cao chất lượng của các quân nhân, mà giảm về số lượng theo phương châm "quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa". Do vậy cậu sẽ được cử đi học một lớp kẻ chữ, vẽ tranh cổ động và viết báo do Cục Tình báo tổ chức. Cậu sẽ được một cán bộ Cục Cơ yếu ra nhận dạng rồi đón vào trong thành bằng đường Của Bắc, cán bộ ấy sẽ dẫn cậu vào Cục Tình báo, cậu sẽ học ở đây.
Tôi nhận mệnh lệnh, về nhà chuẩn bị quân tư trang, ngay chiều hôm ấy lên tài vụ thanh toán tiêu chuẩn gồm tiền, gạo. Thanh toán Xong về chơi bóng bàn trước nhà Ban Huấn luyện, đi ăn tối mở TV phục vụ cán bộ, học viên nhà trường rồi đi ngủ.
Sáng hôm sau khoảnng 7 - 8 giờ tôi đã có mặt tại bến xe thị xã Phủ Lý, lấy vé lên đường về Hà Nội. Tôi về trạm 66 của Bộ Quốc phòng để trình diện rồi sang Của Bắc, đứng chờ ít phút đã thấy có một Đại úy ra đưa tôi đi. Lòng vòng một đoạn, qua một cổng có đặt hai khẩu thần công thời Nguyễn thì chúng tôi tới hội trường của CụcTình báo.
Tiếng là đại bản danh của nghành Tình báo quân đội danh tiếng nhưng cơ sở hạ tầng quả thật tồi tàn, nếu so với Bộ Tư lệnh Lăng thì không bằng cái nhà kho. Hội trường nhỏ bé, nền đổ vữa rẻ tiền lồi lõm, không trần, lợp tôn chơ ra những cái sà bằng sắt han gỉ. Phía sát tường của hội trường có bục cũng xây luôn cho tiện, trên treo cái bảng. Tôi đoán hội trường có sức chứa không quá 200 người. Một viên Trung úy lên giảng về cách kẻ chữ, vẽ tranh cổ động một vài buổi. Vài buổi sau lại một viên sĩ quan khác giảng dạy về nghệ thuật viết báo. Chúng tôi hí húi ghi ghi, chép chép trong yên lặng trật tự không ai trao đổi với ai. Điều này chả phải do chúng tôi có ý thức giữ gìn trật tự tốt đến thế, mà do chưa quen biết nhau mấy. Lớp học chỉ trên dưới hai chục người, phần lớn đến từ những cơ quan khác nhau của Bộ Tổng Tham mưu, mới lần đầu gặp nhau nên chưa có điều kiện làm quen.
Tranh thủ giờ nghỉ giải lao, tôi sang phòng Tài vụ của bác Phan Chí Hiếu. Bác Phan Chí Hiếu hồi ấy là Trưởng phòng Tài vụ của Cục. Thấy tôi sang bác hay mở ngăn kéo cho tôi vài điếu thước lá ngoại do người ta mời. Bác không hút thuốc nên nếu có ai mời thuốc là bác cất trong ngăn kéo để cho những ai mà bác quý. Thấy có nguồn thuốc hút nên tôi chịu khó sang thăm hỏi liên tục, được tiếng là ngoan hiền lễ phép...Sau này khi Cục Tình báo Bộ Tổng Tham mưu được nâng cấp lên thành Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng thì bác Phan Chí Hiếu trở thành Vụ trưởng Vụ Tài chính của Tổng cục.
Hồi ấy thỉnh thoảng tôi còn hay gặp Trung tá Đinh Hải Long, cháu gọi ông Đinh Viết Phụng bằng chú. Chúng tôi phải gọi Trung tá Đinh Hải Long là anh theo vai vế, con của anh Long lại gọi tôi bằng chú. Anh Đinh Hải Long ưa mặc quần kaki Liên Xô xanh nhạt, áo sơ mi ngắn tay sạch sẽ, tóc cắt cao ráo cười nói chân tình cởi mở, xoàng xĩnh và giản dị. Tôi đồ rằng có lẽ anh chỉ làm nhân viên văn thư gì đó thôi nên mới chan hòa giản dị thế, ai dè hỏi ra anh là Trưởng ban Cán bộ mật của Cục Tình báo có kinh không.
Tôi còn gặp bác Đoàn Xuân Thủy trong Ban Cơ yếu Trung ương lúc bấy giờ cũng đóng trong thành Hà Nội, gần các Cục Tình báo, Cơ yếu, Tác chiến...Bác tươi cười nhìn tôi rất đỗi ngạc nhiên đầy thắc mắc ý rằng tôi - tay lính quèn sao vào được đây?
Tôi theo học lớp kẻ vẽ, viết báo được một tuần thì được lệnh của thủ trưởng nhà trường tiếp tục ở lại thành Hà Nội để học lớp viết kịch. Thế là tôi khăn gói quả mướp đồ đạc quân trang lỉnh kỉnh theo tay sĩ quan tiếp tân của Bộ Quốc phòng sang trạm 66 đóng gần cửa Bắc. Chúng tôi vào phòng khách của trạm để nghe Đại tá Nguyễn Văn Bình - Trưởng phòng Tuyên huấn Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu nói chuyện và giao nhiệm vụ. Đại ý vị Đại tá ấy nói rằng theo sự lãng đạo của Đảng, quân đội có chủ trương nâng cao trình độ nhận thức, nâng cải thiện đời sống văn hóa - tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ nên cử các đồng chí đi học. Sau khi đã tiếp thụ kiến thức, các đồng chí sẽ là những hạt nhân phong trào trong các đơn vị cơ sở của Bộ Tổng Tham mưu. Bộ Quốc phòng sẽ tạo điều kiện tốt nhất để các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ và v.v...Cùng học đợt này còn có cô Vinh - Trung úy người Nghệ An, xinh đẹp chưa chồng, vốn cũng là người cùng trường Mật mã với tôi.
Sau khi họp song tôi theo tay sĩ quan hành chính đi nhận phòng. Tôi được nghỉ ngay tại đại bản doanh của Bộ Quốc phòng, nơi tiếp giáp đường Hoàng Diệu. Căn nhà này được thực dân Pháp xây dựng rất bề thế và kiên cố từ năm 1907 với những bức tường rất dày, những của sổ và cửa chớp bằng gỗ lim sơn mầu xanh lá cây rất đẹp. Tôi được phân một giường của sĩ quan cao cấp làm bằng gỗ cẩm lai, đánh véc ni bóng nhẫy. Ở đầu giường tôi luôn có phích nước nóng do các nữ nhân viên của trạm mang đến cho chúng tôi dùng trà. Căn nhà này có hành lang khá rộng lát gạch men đỏ sậm từ thời Pháp thuộc, lúc nào cũng được lau chùi quét dọn sạch sẽ. Ở mỗi ô cửa ngoài hành lang đều có thêm một lớp của lửng cũng do Pháp thiếu kế để ngăn cái nắng gay gắt của mặt trời buổi chiều xứ nhiệt đới. Phía giáp bờ tường cạnh đường Hoàng Diệu là một khu vườn dài và hẹp mọc toàn những cây sấu cổ thụ có tuổi đời chắc cũng tương đương như ngôi nhà. Người Pháp không ngu khi chọn giống sấu để trồng cạnh ngôi nhà. Thứ nhất là cây sấu không bao giờ có sâu dóm hay bọ nẹt, thứ hai là cây sấu không quá to nên không dễ đổ về mùa mưa bão nhiệt đới làm hư hại ngôi nhà. Hồi ấy đang độ cuối hè đầu thu nên quả sấu vào độ chín ngả mầu vàng. Chiều chiều chúng tôi hay ra vườn ném cho sấu rụng để ăn.
Thường thường buổi sáng chúng tôi dậy sớm theo chế độ của quân nhân, nghĩa là tập thể dục, làm vệ sinh cá nhân và ăn sáng. Đúng 8 giờ sáng chúng tôi tập hợp ở hội trường của Trạm để làm quen với các thầy, cô giáo và các anh chị em học viên khác rồi bắt tay vào học. Thầy chính dạy môn viết kịch bản là Đại tá Vũ Dũng Minh - tác giả của vở "Đôi mắt" nổi tiếng hồi chiến tranh chống Mỹ. Thày có bộ dạng khá lập dị và cổ quái trong bộ quân phục bạc mầu của lính trơn. Lúc nào áo thày cũng bỏ trong quần, thắt lưng cẩn thận. Quanh năm thày đi đôi dép cao su cũ kĩ, chắc có lẽ cũng từ thời thày đi thực tế với quân giải phóng ở Trường Sơn. Thầy đội một chiếc mũ tai bèo có buông quai cẩn thận, lại kéo nút cho sát vào cằm như thể sắp sửa phải vào trận đánh. Một tay thầy sách tay nải trong có đựng tài liệu giảng dạy do thày tự biên soạn, còn tay kia thày sách điếu cày. Trong đoàn giáo viên còn có thày Hoàng Hà, cô Hồng Hà giảng về nhạc kịch, đạo cụ và thày Đinh Xuân Dũng giảng về Chân - Thiện - Mỹ trong nghệ thuật. Chúng tôi học hành và cố gắng nên thày Vũ Dũng Minh rất vui, các thày cô khác cũng hài lòng nên đem hết nhiệt tình mà truyền lại cho chúng tôi những kiến thức cơ bản của nghệ thuật sân khấu. Cuối khóa học chúng tôi phải viết kịch bản để cho thày kiểm tra. Kết cục cô Vinh đỗ ưu tú, tôi đỗ loại giỏi.
Hồi ấy tuy tuy nền kinh tế Việt Nam đang ở vào thời kỳ vô cùng tồi tệ, song Trạm 66 Bộ Quốc phòng đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để chúng tôi học tập. Chúng tôi được ăn ở theo chế độ của sĩ quan cao cấp. Hàng ngày tôi đi ăn ở khu nhà ăn khá sang trọng ở phía cuối trạm. Thức ăn tôi thường dùng là cơm gạo trắng đựng trong những liễn sứ khá đẹp có nắp đậy. Trên bàn bầy sẵn một chiếc bát sứ Hải Dương, một đôi đũa, một tấm giấy lau miệng mầu hồng nhạt. Thức ăn khá thịnh soạn gồm một đĩa thịt rang hoặc xào, mấy khoanh trứng tráng, một đĩa rau xào hoạc luộc, một bát nước rau, đôi khi là canh, một bát nước mắm ngon có mấy lát ớt cùng chanh. Ăn xong chúng tôi bỏ ra vòi nước bên cạnh để rửa miệng, bát đĩa rếch để lại nguyên trên bàn, nhà bếp của Trạm có trách nhiệm thu rửa.
Sau khi ngủ trưađộ khoảng một tiếng đồng hồ chúng tôi lại bắt tay vào học cho đến khoảng bốn rưỡi, năm giờ chiều rồi nghỉ. Chúng tôi thường lang thang trong Trạm để mua bia hơi uống. Cũng có khi ngồi tụ tập trà lá với mấy tay sĩ quan mới quen cùng lớp. Những sĩ quan trẻ này hầu hết chưa có gia đình nên tán chuyện vô tư cởi mở, thi thoảng lại cười rộ lên thu hút sự chú ý của mấy cô phục vụ.
Nguyên Trạm 66 tuyển được một dàn các cô cần vụ rất trắng trẻo và xinh đẹp, đó là các cô Dung, cô Hường, cô Tường... Các cô này ngoài việc phục vụ các việc lặt vặt cho các vị Tướng các cô còn lo việc lau quét nhà cửa, lấy phích nước nóng cho chúng tôi dùng trà. Lắm khi tôi hay nhờ vả các cô đi mua bia hộ, vì các cô không cần xếp hàng như những người hác. Tôi chơi thân với cô Dung, cô trông nhỏ nhắn, hai má trắng hồng với hai bím tóc trông xinh xắn như búp bê. Chả hiểu sao cô này trông thấy tôi lần đầu là có thiện cảm ngay. Thường thường có lúc vào buổi chiều cô hay đến ngó tôi nơi tôi nghỉ, chúng tôi nói chuyện lăng nhăng, lắm khi cô cố tình trêu tức để cho tôi đuổi...Có hôm Trạm mời đoàn kịch nói của Tổng cục Chính trị đến diễn vở "Tôi và chúng ta" của Lưu Quang Vũ trong sân trạm, cô đến rủ riêng tôi cùng đi. Chúng tôi ngồi sát bên nhau mà xem kịch, thi thoảng cô giật tay tôi, nhờ khêu hộ cái gai ở chân. Cô này cả ngày đi guốc cao, lại ở giữa Thủ đô sao giẫm phải gai hở Giời.Vợ chồng Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh cũng ngồi trên bao lơn để xem kịch. Đại tướng Lê Đức Anh hồi ấy còn khá trẻ, tướng mạo phương phiu phúc hậu, thỉnh thoảng ông lại mỉm cười nhìn xuống chúng tôi bằng một bên mắt giả hơi hiêng hiếng...Nguyên trong Trạm 66 có hai vị Tướng ở, đó là Thượng tướng - Trưởng ban biên giới Đàm Quang Trung và Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh nói trên. Nhà của Thượng tướng Đàm Quang Trung là một ngôi biệt thự xây theo lối hiện đại đối diện với biệt thự của Đại tướng Lê Đức Anh.
Sau khi tốt nghiệp khóa học, Trạm 66 chiêu đãi chúng tôi một bữa tiệc thịnh soạn tại biệt thự của Thượng tướng Đàm Quang Trung. Chúng tôi kê bàn ăn ngay chân cầu thang tầng trệt, cạnh bể nước nhân tạo uốn quanh chân cầu thang. Bữa tiệc hôm đó có món tiết canh dê do đầu bếp trạm chế biến khá ngon và lạ miệng. Chúng tôi dùng lẫn cả bia lẫn rượu, đốt thuốc khói um, cười nói hỉ xả. Sau khi ăn xong lại được người phục vụ bưng ra từng khay trà và kẹo ăn tráng miệng. Buổi chiều chúng tôi báo cắt cơm, sửa soạn hành lý rồi chuẩn bị quay về đơn vị.
Cũng thời kì đó tôi có nghe kể về vụ tai nạn ô tô hi hữu diễn ra ở Hải Dương đã cướp đi mạng sống của nghệ sĩ chèo tài ba Như Hoa và nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Rồi tôi nghe kể về những cái chết bát thường của hai vị tướng tài là Đại tướng Lê Trọng Tấn và Đại tướng Hoàng Văn Thái - niềm ngưỡng mộ của cánh lính trẻ chúng tôi bay giờ đã không còn nữa.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen