Bảng tin

- Cây cổ thụ phải có ma quỷ, con gái lớn phải có người yêu
ກົກໄມ້ໃຫຍ່ຕ້ອງມີຜີ, ສາວຜູ້ດີຕ້ອງມີສູ້
Kốc mạy nhày toọng mi p*hỉ, sảo phụ đi toọng mi sụ
- Uống rượu vào không có gì khó nói (Rượu vào, lời ra)
ເຫຼົ້າເຂົ້າປາກຄຳຍາກບໍ່ມີ
Lậu khậu pạc khoam nhạc bò mi
- Gió lạnh đắp chăn, trời lạnh sưởi lửa, tâm hồn lạnh ôm người yêu/(gái)
ໜາວລົມຫົ່ມຜ້າ, ໜາວຝ້າຟິງໄຟ, ໜາວໃຈກອດສາວ
Nảo lôm hồm p*hạ, nảo phạ phìng phay, nảo chay kọt sảo
- Nước lên cá ăn kiến, nước xuống kiến ăn cá
ນ້ຳຂຶ້ນປາກິນມົດ, ນ້ຳລົດມົດກິນປາ
Nặm khựn pà kin mốt, nặm lốt mốt kin pà
- Đi đạp phải chó, về đạp phải nhái (Đi sớm về khuya)
ໄປຢຽບໝາ, ມາຢຽບຂຽດ
Pay diệp mả, ma diệp khiệt
- Lòng người khó lường
ຢ່າເຊື່ອໃຈທາງ ຢ່າວາງໃຈຄົນ
Dà xừa chay thang, dà vang chay khôn
- Có tật giật mình
ກິນປຸນຮ້ອນທ້ອງ
Kin pun họn thoọng
- Mua voi phải xem đuôi, lấy vợ phải nhìn người mẹ
ເບິ່ງຊ້າງຕ້ອງເບິ່ງຫາງ, ເບິ່ງນາງຕ້ອງເບິ່ງແມ່
Bờng xạng toọng bờng hảng, bờng nang toọng bờng mè
- Ông bà tổ tiên
ປູ່ຍ່າຕາຍາຍ
Pù nhà ta nhai
- Lá rụng về cội
ໃບຫລົ່ນໃກ້ກົກ
Bay lồn cậy cốc
- Vại lớn đầy, vại nhỏ không đầy
ໄຫໃຫຍ່ເຕັມ,ໄຫນ້ອຍບໍ່ເຕັມ
Hảy nhày têm, hảy nọi bò têm
- Lên đỉnh mối, xuống vũng heo
(Lên voi, xuống chó)
ຂື້ນຈອມປວກ,ລົງບວກໝູ
Khựn chom puộc, lôông buộc mủ.
- Gần mực thì đen, gần đèn (vàng) thì sáng.
ໃກ້ມຶກດຳ,ໃກ້ຄຳຮຸ່ງ
Cạy mực đăm, cạy khăm hùng
- Sông đầy cá, ruộng đầy lúa.
ນ້ຳເຕັມປາ,ນາເຕັມເຂົ້າ
Nặm têm pa, na têm khậu
- Có xôi nói xôi dẻo, có thịt khen thịt bùi.
ໄດ້ຈ້ຳແຈ່ວຍ້ອງວ່າແຈ່ວນົວ,ໄດ້ກິນລາບງົວຍ້ອງວ່າລາບງົວແຊບ.
Đạy chăm cheo nhoong và cheo nua, đạy kin lạp ngua nhoong và lạp ngua xẹp.
Được lòng ta xót xa lòng người. (Yêu vợ thì mất họ hàng)
ຮັກເມຍເສຍພີ່ນ້ອງ
Hắc mia sỉa p'hì nọng
Chưa học bò đã lo chạy (dục tốc bất đạt).
ມັກໄວໃຫ້ຄານ,ມັກນານໃຫ້ແລ່ນ
Mắc vay hạy khan, mắc nan hạy lèn
Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
(Công cha như núi cao, nghĩa mẹ như trời đất)
ຄຸນພໍ່ທໍ່ພູເຂົາກ້າ,ຄຸນແມ່ທໍ່ຟ້າແຜ່ນດິນ
Khun p’hò thò p’hu khậu cạ, khun mè thò phạ p’hèn đin.
Nằm sương gối đất (ngủ giữa đất, ăn giữa bãi cỏ)
ນອນກາງດິນ,ກິນກາງຍ້າ
Non cang đin, kin cang nhạ.
Ăn lúc nóng, múa lúc say (ăn khi đói, nói khi say)
ກິນຍາມຮ້ອນ,ຟ້ອນຍາມເມົາ
Kin nham họn, phón nham mau
Thức ăn không ăn thì thối, việc cũ không nhắc thì quên
ຂອງກິນບໍ່ກິນມັນເນົ່າ,ຂອງເກົ່າບໍ່ເລົ່າມັນລືມ
Khoỏng kin bò kin măn nầu, khoỏng cầu bò lầu măn lưm
Ăn vừa thèm, nói vừa sự tức giận (ăn bớt đọi, nói bớt lời)
ກິນສົມຢາກ,ປາກສົມຄຽດ
Kin sổm dạc, pạc sổm khiệt
Ăn cơm cùng mâm, ăn cá cùng bát. (đồng cam cộng khổ)
ກິນເຂົ້າຮ່ວມພາ,ກິນປາຮ່ວມຖ້ວຍ
Kin khậu huồm p’ha, kin pa huồm thuội.
Ăn cơm mình, đừng bàn tán chuyện người khác.
ກິນເຂົ້າໂຕ,ຢາ່ໂສຄວາມເພີ່ນ
Kin khậu tô, dà sổ khoam phờn
Ăn cơm với chả cá thì ngủ ngáy o o, ăn cơm với thịt bò kho thì mơ ác mộng suốt đêm (ăn cơm với cáy thì ngáy o o, ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy)
ກິນເຂົ້າກັບປົ່ນນອນກົນສອດໆ,ກິນເຂົ້າກັບສິ້ນຫລອດຝັນຮ້າຍຍັ່ງຄືນ.
Kin khậu cặp pồn non côn sọt sọt, kin khậu cặp sịn lọt phẳn hại nhằng khưn.
Ăn để sống không phải sống để ăn.
ກິນເພື່ອຢູ່,ບໍ່ແມ່ນຢູ່ເພື່ອກິນ
Kin p’hừa dù, bò mèn dù p’hừa kin.
Ăn nhiều vỡ bụng, vác nhiều gẫy lưng. (ăn vừa no, làm vừa sức)
ກິນຫລາຍທອງແຕກ,ແບກຫລາຍຫລັງຫັກ
Kin lải thoong tẹc, bẹc lải lẳng hắc





NGỒI THIỀN NHẬP ĐỊNH

Câu hỏi của Diệu Thành (Minh Cảnh)
HỏiKính thưa Thầy! Con được theo Thầy tu học nhiều năm, chỉ thấy Thầy làm việc nhiều để chúng rảnh rang tu học, Thầy thì chẳng thấy ngồi thiền nhập định ngày nào hết.
Vậy sao mà Thầy nhập định tháng này qua tháng khác được?
Đáp: Từ khi làm Phật sự giúp đỡ người tu, Thầy không có thời gian ngồi thiền nhập định một vài tháng, chỉ ngồi nhập định 1, 2 giờ khuya để dưỡng sức lo cho chúng.
Tháng 8 cuối năm 1991 Thầy vào thất với chúng tu tập, lúc bấy giờ Thầy mới có dịp nhập định được 7 ngày và đến 15 ngày để làm gương cho chúng và cũng không còn có thì giờ nhập định lâu hơn, vì phải ở ngoài để lo sự tu tập của chúng. Lỡ chúng tu sai, điên khùng Thầy chịu trách nhiệm nên không dám lơi lỏng.
Nhưng đó là nhập định chơi cho quý Thầy biết mà thôi, chứ nhập định không phải tập ngồi nhiều mà chỉ tập pháp hướng cho có hiệu quả để truyền lệnh nhập định, chứ không phải ngồi lim dim như con cóc từ giờ này đến giờ khác.
Người tu thiền định, muốn nhập định mà không tập luyện pháp hướng tâm, chỉ tập ngồi thiền cho nhiều thì sẽ nhập định con cóc, chứ không có nhập định nào được cả. Vì thiền định của Phật từ giới sinh ra định chứ không phải từ định sinh ra định.
Người muốn nhập các định thì tu tập pháp như lý tác ý (hướng tâm) mới điều khiển nhập được các định. Bởi vì, các loại định đều có sự tịnh chỉ các hành trong thân khác nhau như sau:
1- Sơ Thiền, tịnh chỉ ngôn ngữ.
2- Nhị Thiền, tịnh chỉ tầm tứ.
3- Tam Thiền, tịnh chỉ tưởng (hỷ).
4- Tứ Thiền, tịnh chỉ hơi thở.
Người tu tập pháp hướng tâm chỉ cần ra lệnh tịnh chỉ trạng thái nào hoặc hành tướng nào ở định đó, thì trạng thái, hay hành tướng ở định đó liền tịnh chỉ (ngưng), nhập vào định đó.
Đừng hiểu lầm là phải tập ngồi thiền cho nhiều, ngồi nhiều từ từ sẽ nhập định này rồi đến định khác, đó là người không hiểu thiền định. Thiền định không thể tu tập nhập theo kiểu đó được, tu tập theo kiểu đó chỉ rơi vào các loại tà định (tưởng định). Tu như vậy, chẳng ích lợi gì, không bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết được, mà ngược lại chỉ nuôi thiền miệng, thiền lưỡi, chỉ nhập thiền tuởng.
Điều quan trọng của sự tu tập thiền định là phải tu tập “xả tâm diệt ngã, ly dục ly ác pháp”, nhờ đó tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh mới chỉ tịnh chỉ được các hành thì mới nhập các định, nhất là nhập Tứ Thiền hơi thở phải tịnh chỉ. Do đó, an trú trong định 1, 2 ngày rất dễ dàng mà không thấy đau nhức, mỏi mệt gì cả.
Khi tập luyện pháp hướng có đạo lực thì hành giả muốn nhập định lúc nào cũng dễ dàng và nhập bao lâu cũng được tùy theo loại định.
Vì thế, đức Phật mới gọi đó là: “Định Như Ý Túc”. Cho nên khi tâm ly dục, ly ác pháp xong thì mới tu tập thiền định, còn tâm chưa ly dục, ly ác pháp mà tu thiền định thì đó thiền cóc, thiền ngồi, thiền tưởng.
Cho nên, muốn tu tập nhập định cho đúng thiền của Phật giáo như trên đã nói thì phải tu tập giới luật và giữ gìn giới hạnh cho nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì mới nhập định được. Rất mong quý vị hiểu cho.


















http://images.google.de/imgres?imgurl=http%3A%2F%2Fhochiminh.vn%2Fworkspace%2FAlbum%2F44P.JPG&imgrefurl=http%3A%2F%2Fhochiminh.vn%2FPages%2FGallery.aspx%3FItemID%3D38&h=476&w=737&tbnid=EvGDKob4oZm3uM%3A&docid=IGYlaJ7hYSP7zM&ei=q06wV-r_BY31gAa6r47QDA&tbm=isch&iact=rc&uact=3&dur=531&page=3&start=58&ndsp=29&ved=0ahUKEwiqgYnj38DOAhWNOsAKHbqXA8oQMwjJAShTMFM&bih=917&biw=1280



Khẩu ác nghiệp có 4 tội


 
Nên nhớ:
– Khẩu nghiệp: là nghiệp lực khó khắc phục nhất cho việc tu hành.
– Khẩu nghiệp: là lực cản trở lớn nhất cho việc tu hành chứng đạo.
– Khẩu nghiệp: là sức mạnh sát hại sinh mạng lớn nhất cho việc tu hành.
– Khẩu nghiệp: là nghiệp lực chính yếu đưa ta đọa xuống ác đạo.
– Khẩu nghiệp: là sức mạnh ngăn trở lớn nhất cho việc vãng sanh.
– Khẩu nghiệp: Khiến cho đạo tràng không được thanh tịnh, thị phi không ngừng.
– Khẩu nghiệp: Khiến cho tăng đoàn không hòa hợp, đạo pháp không hưng thịnh.
– Khẩu nghiệp: Khiến chúng sanh thoái mất đạo tâm, đoạn mất thiện căn làm người.

————-
Bốn Ác Nghiệp Của Một Người
Ai mà khẩu nghiệp không thanh tịnh thì chịu tội cắt lưỡi ở địa ngục.
Thời khắc nào cũng phải tự quản chế mình, không nên buông thả hay nói năng bừa bãi. Nếu trồng nhân không thanh tịnh, tương lai chúng ta nhất định sẽ gặt quả không thanh tịnh.
Khẩu: Miệng, lời nói. Nghiệp: cái hậu quả của việc làm thiện hay ác trong kiếp trước thể hiện ra trong kiếp hiện tại bằng sự hạnh phúc hay đau khổ. Khẩu nghiệp là cái nghiệp do lời nói từ miệng mình gây ra, nên Khẩu nghiệp cũng được gọi là Ngữ nghiệp.
Khi nói Khẩu nghiệp là có ý nói: Khẩu ác nghiệp.
Khẩu ác nghiệp có 4 tội:
– Vọng ngữ (nói láo),
– Ỷ ngữ (nói thêu dệt),
– Lưỡng thiệt (đâm thọc),
– Ác khẩu (chửi rủa).
khaunghiep
“Lời nói không thể thấy, không thể cầm nắm được, hình như không có tướng, thế mà tự xưa nay đã gây nên biết bao nụ cười và nước mắt. Có phản ứng tức có tác nhân. Nói đến nhân là nói tướng. Vậy tướng của lời nói là gì?
Người nóng nảy thì hay nói lời xúc xiểm, người dối trá thì lời nói trơn tuột, chẳng thể bắt bẻ họ, nhưng cũng không thể hiểu tâm họ ra sao? Người thâm hiểm thì nói xúc phạm đến kẻ khác bằng giọng nói như hiền từ… tất cả ngôn ngữ này đều phát sinh từ một gốc, đó là Tâm; và do đó tướng của ngôn ngữ là Tâm. Tâm Phật thì lời nói là pháp thiện, Tâm chúng sanh thì lời nói thành ác nghiệp.
Tâm chúng sanh có muôn ngàn tướng thì lời nói cũng gây muôn ngàn nghiệp báo.
Nên quan sát ngôn ngữ của một người là quan sát tâm người ấy. Cách biểu lộ Tâm ở mỗi người mỗi khác, cho nên gọi mỗi người có một ngôn ngữ riêng cũng đúng. Con hãy hiểu họ theo Tâm, đừng chỉ nghe hời hợt bằng tai. Ðó là quan sát âm thanh.
Khi con “không thích lắm” một điều gì, con thường nói “rất ghét” điều ấy. Ở một người chín chắn hơn, họ sẽ nói “không chú ý lắm”. Nếu chỉ hiểu theo cái nghe của tai thì hai lời nói này là 2 sở thích khác nhau. Từ đó gây biết bao điều ngộ nhận.
Ðể quan sát được âm thanh như thật, con không thể dùng cái nghe của tai. Con hãy nghe bằng Tâm. Dùng Tâm mà hiểu tâm, mà tâm nào có thể hiểu tất cả các thứ tâm của chúng sanh? Ðó là tâm Phật. Con không thể thấy tất cả các tâm của người đối thoại, chắc chắn con không thể hiểu hết lời nói của họ. Cho nên chớ vội phản ứng theo cái nghe của riêng mình. Lời nói là Tâm, cho nên Tâm ác sinh lời nói ác. Dù được ẩn giấu, dù người không phát hiện, hay không phản ứng thì điều ác đã sinh, vẫn đem lại quả báo Ác cho con.
Câu nói dân gian “Khẩu xà tâm Phật” là sai hoàn toàn, Phật chẳng bao giờ nói lời độc ác, hại người, là tính cách các con dùng để tả Rắn. Ở mỗi người có cách nói thương khác nhau, có cách biểu hiện Từ Bi khác nhau. Như hạnh sai biệt của các Bồ Tát, thị hiện là Phán quan cũng xét xử công minh, khó có thể gọi là Ác tướng.
Chư Tổ mắng chửi đệ tử từ tâm không, để giáo hóa nhẫn hạnh hay khai ngộ Chân tánh, chẳng thể gọi là Ác khẩu. Nhưng người tự cho mình có Tâm lành, nên buông lời không kềm chế, mỗi lời nói gây hại cho kẻ khác không kể xiết, lại ngụy biện bằng câu “Khẩu xà Tâm Phật” thì khẩu nghiệp ấy thật khôn lường. Từ Tâm Phật thì lời ấy dù thế nào cũng mang lợi cho người nghe. Ngược lại, chỉ gây hại đó gọi là Ác khẩu. Và Tâm Ác sinh tướng Ác, sinh khẩu Ác, sinh nghiệp Ác, sinh Ác báo.
Con hãy cẩn thận lời nói. Lời nói là hơi thở từ miệng. Mà sống chết theo từng hơi thở ra vào, cho nên sống chết cũng theo từng lời nói mà đến đi”.
Tôn giả Ma Ha Mục Kiền Liên là vị có thần thông đệ nhất. Nhưng đức Thế Tôn đã nhiều lần cảnh cáo ông không được tùy tiện hiển hiện thần thông. Tại sao? Bởi vì không phải ai ai cũng có thần thông. Nếu quý vị hiện thần thông một cách bừa bãi, sẽ làm người thế tục kinh sợ, rồi khiến họ mê thích thần thông, sùng bái thần thông. Thế thì người có thần thông sẽ được cúng dường lớn, còn người không có thần thông chắc là chẳng ai muốn cúng dường. Bởi vậy đức Phật mới không cho đệ tử tùy tiện hiện thần thông, với dụng ý là bảo hộ người tu hành đời sau này.
Người tu hành không nên tự khoe khoang về đức hạnh, như nói là mình đã khai ngộ, mình là Tổ Sư hay là Bồ Tát. Đó là đại vọng ngữ, tương lai chết đi sẽ đọa địa ngục bạt thiệt cắt lưỡi. Đây tuyệt hẳn không phải là những lời hý luận giỡn chơi. Chỉ những hạng người vô tri, vô thức mới có thứ hành vi tự mãn như thế. Ví như người nào đó thật sự giàu có, họ tuyệt đối sẽ không nói với người khác rằng: “Các anh có biết không? Tôi có bấy nhiêu hột xoàn, bấy nhiêu ngọc quý nè. Tất cả tài sản bảo vật của toàn thế giới, nếu so ra cũng không nhiều bằng của tôi đâu.” Nếu quý vị tuyên truyền như thế, tức làm mục tiêu cho bọn trộm cướp, chúng nhất định sẽ chú ý đến quý vị và tìm cách cướp đoạt châu báu đó.
Tu đạo cũng tương tự như thế, không nên nói với người khác rằng: “Tôi có thần thông. Tôi có thể nghe Phật và Bồ Tát nói chuyện. Tôi có thể thấy Phật, Bồ Tát hiện ra trước mặt”. Hoặc giả có như thế, tức là tạo cơ hội cho Ma Vương thừa dịp nhập vào hợp tác với quý vị, chỉ huy quý vị để làm quyến thuộc của nó. Bất luận gặp cảnh giới nào, người tu hành cũng nên nhận rõ cảnh giới, chớ để cảnh giới xoay chuyển và nên dùng định lực để chuyển cảnh giới. Không nên hồ đồ, nói năng bừa bãi là mình chứng được thần thông gì, thấy được cảnh giới chi. Quý vị nên hiểu đó là do ma tác quái, nó khiến quý vị mất đạo tâm mà phát cuồng. Đó chính là hiện tượng bị “tẩu hỏa nhập ma,” chứ không phải là cảnh giới thật. Trong kinh Lăng Nghiêm có nói rất rõ về năm mươi loại ấm ma.
Tôi hy vọng mọi người nên triệt để nghiên cứu thấu đáo để khỏi bị nhầm lẫn. Nếu không thì sau này có hối hận cũng không kịp. Người tham thiền không nên chấp vào cảnh giới, gọi là: “Phật đến thì chém Phật, ma đến thì chém ma”. Bất luận ai đến, mình cũng chém hết. Đó là không chấp tất cả các pháp hữu vi, không chấp tất cả các hình tướng. Người tu hành nên chuyên cần nhất tâm dụng công, nếu được vậy thì còn thời gian đâu để lo những chuyện tào lao. Hơn nữa cũng không nên cống cao ngã mạn, mà cũng đừng tham danh, tham lợi. Nếu như quý vị có thứ tư tưởng và hành vi như thế, tức quý vị bị rơi vào cảnh giới của ma rồi. Người tu hành dù ở trong hoàn cảnh nào cũng không nên tự mãn, không được kiêu ngạo, hoặc nghĩ mình là nổi bậc, phi thường. Hãy cẩn thận, không nên sai lầm về nhân quả. Nếu không, chúng ta không tưởng tượng nổi hậu quả sẽ như thế nào.
Người tu hành chủ yếu là tu giới thanh tịnh, tức là ba nghiệp thân, khẩu, ý đều nên thanh tịnh. Người có thần thông, tuyệt đối không được nói là mình có thần thông; hà huống mình vốn không có thần thông mà nói bừa nói láo, há đó không phải là tạo nhân để đọa địa ngục sao? Điều đó quả thật là đáng sợ! Ai mà khẩu nghiệp không thanh tịnh thì chịu tội cắt lưỡi ở địa ngục. Vậy chúng ta chớ nên liều lĩnh. Thời khắc nào cũng phải tự quản chế mình, không nên buông thả hay nói năng bừa bãi. Nếu chúng ta trồng nhân không thanh tịnh, tương lai chúng ta nhất định sẽ gặt quả không thanh tịnh. (28178)