|
||||||||
|
||||||||
|
Chuyện hai cụ già ăn… đất(?)
Trong những ngày vất vả lang thang tìm người ăn đất
ở thị trấn Lập Thạch (Vĩnh Phúc), tôi đã gặp một cặp vợ chồng, là hai
cụ già gần 80 tuổi, sống trong ngôi nhà toàn bằng đất và món ăn
hàng ngày của hai cụ là… đất. Hai cụ ăn đất nhiều đến nỗi, đã đục ruỗng
cả bờ ao. Cả huyện Lập Thạch, đã nhiều năm nay, không còn ai ăn đất
nữa, chỉ có hai cụ, vẫn nghiện đất như nghiện... ma túy
Cụ Loa nướng đất
Mấy năm
trước, truyền hình, báo chí đưa tin ầm ĩ về chuyện ăn đất ở thị trấn
Lập Thạch, khiến cả thế giới ngạc nhiên. Tuy nhiên, lần này trở lại,
tôi được ông Nguyễn Công Tuấn, Phó chủ tịch UBND thị trấn Lập Thạch
cung cấp thông tin: “Ngày trước báo chí, truyền hình dựng cảnh một vài
cụ già ăn đất rồi quay, rồi chụp, rồi gây dư luận ầm ĩ, chứ thực ra,
các cụ đã ngừng ăn đất 20 đến 30 năm nay rồi. Chả còn ai ăn đất nữa
đâu”. Mặc dù tin lời ông Tuấn, song tôi trộm nghĩ, 20 năm trước, nơi
đây có rất nhiều bà, nhiều chị ăn đất, đất ăn được bày bán như mớ rau
mớ cá ngoài chợ, thì dù tục ăn đất có mai một, cũng chưa thể hết ngay
được. Do đó, tôi quyết định đi tìm cho bằng được một cụ già ăn đất ở xứ
này.
Những người trẻ thì không biết gì về
tục ăn đất, thậm chí, hỏi chuyện ăn đất, thanh niên còn tròn mắt ngạc
nhiên, cứ như chuyện đó chỉ có ở thế giới khác, chứ không phải ở quanh
họ. Chỉ có người lớn tuổi vẫn biết có tục ăn đất ở Lập Thạch. Tuy
nhiên, hỏi còn ai ăn đất không, họ đều lắc đầu không biết. Các cụ già
nghiện đất phần thì đã cai từ vài chục năm nay, phần thì đã… về với đất
cả rồi. Cụ Nguyễn Thị Lạc, người được lên báo chí, truyền hình nhiều,
cũng đã mất 3 năm trước, cụ Huệ nổi tiếng nghiện đất đã mất tròn 10
năm…
Người dân chỉ tôi 3 ngọn đồi mà các cụ
già ở Lập Thạch đào đất ăn từ hàng trăm năm nay, gồm đồi Công An (sở dĩ
có tên gọi như vậy vì nó nằm sau Công an huyện Lập Thạch), đồi Bò Vàng
và đồi Vạng. Chỉ có 3 quả đồi này cho đất dày nhất, “ngon nhất”, “ngậy
nhất”. Nơi khác cũng có đất ăn được, nhưng lẫn tạp chất, nhiều sạn,
khó ăn. Tuy nhiên, đồi Công An đã bị san phẳng, nhà cửa mọc lên kín
mít. Đồi Bò Vàng, nơi mà mấy chục năm trước, mỗi nhà trong xóm sở hữu
một giếng đất sâu như hầm vàng, giờ cũng không còn cái giếng nào nữa.
Người ta đã lấp lại kẻo trâu bò, thậm chí người qua lại sụt xuống hố
chết bất đắc kỳ tử.
Vòng vèo mãi, rồi tôi cũng tìm thấy đồi
Vạng, ở xóm Thống Nhất, trồi lên giữa cánh đồng. Mảnh đất đá sỏi gan
trâu khô cằn đến nỗi bạch đàn còn xơ xác. Ông Đỗ Văn Bình, trưởng thôn
Thống Nhất, nhà ở cánh đồi Vạng một đoạn bảo: “Ngày trước, cả thôn Thống
Nhất đào hầm, đào giếng ở đồi Vạng lấy đất ăn, đem bán. Nhưng giờ
không ai lấy nữa. Khu đồi giờ thuộc sở hữu của cụ Loa. Không biết hai
cụ còn đào đất, còn ăn đất nữa không. Nhưng hôm trước nghe vợ tôi kể,
gặp cụ Biện, vợ cụ Loa ở chợ, thấy mép dính đất. Chắc cụ này vẫn còn
ăn”. Nói rồi, ông Bình dẫn tôi tìm đến nhà cụ Loa.
Ngôi nhà của hai cụ có tuổi độ vài chục
năm, nhưng kiểu cách của nó thì chắc cỡ mấy ngàn năm rồi! Hai cụ vẫn
sống trong ngôi nhà tường trình đất, loại nhà phổ biến từ thời… Đông
Sơn. Ông Bình bảo, con cháu hai cụ đều khá giả, có điều kiện, nhưng hai
cụ nhất định không ở cùng, cứ ở với nhau trong căn nhà đất xập xệ.
Thậm chí, đã mấy lần lãnh đạo thị trấn động viên cụ phá nhà đất, rồi
các cơ quan hỗ trợ xây cho cụ một ngôi nhà nhỏ, chắc chắn, song cụ cũng
không đồng ý. Hai cụ bảo, hai cụ đã già, sắp chết rồi, xây nhà làm gì
cho phí, tiền đó đem xây cho người khác.
Khi tôi vào nhà, cụ Khổng Thị Biện đang
lọ mọ trong bếp, khói mù mịt, nóng hầm hập. Hỏi cụ đang làm gì, cụ
Biện ngẩng lên, tay quệt mắt nhòe nhoẹt nước vì ám khói bảo: “Bà đang
nướng ngói (các cụ gọi loại đất ăn được bằng cái tên lịch sự là ngói).
Hôm qua ông bà ăn hết rồi, nay nướng thêm để ăn. Ông bà nghiện cái món
này rồi, ai bỏ được chứ ông bà thì không bỏ được, chết mới hết ăn”. Tôi
hỏi cụ Loa, cụ Biện ra sân chỉ tay về phía cái ao trước nhà. Tôi thấy
một già, một trẻ đang lõm bõm dưới nước. Cái ao dưới chân đồi sâu hoắm,
nhưng nước cạn sền sệt, chưa đến đầu gối. Đứa cháu dùng xà beng đâm
bồm bộp vào bờ ao, nạy ra từng “tảng đá” trắng như vôi. Thằng cháu cứ
nạy được “cục đá” nào, cụ Loa lại lòng khòng bê lên sân phơi, dưới cái
nắng bỏng giãy. Tôi hỏi: “Cụ đào đá làm gì vậy?”. Cụ Loa bảo: “Đá là đá
thế nào. Ông đào đất đấy. Đất này ăn được. Không tin hả? Ông bà ăn
ruỗng cái bờ ao này rồi!”.
Cụ Khổng Văn Loa khệ nệ đặt cục đất lên
sân phơi nắng rồi nói như súng liên thanh: “Ngày trước ông bà đào
giếng ở đồi Vạng lấy đất chế biến, vừa ăn, vừa bán, nhưng giờ không ai
ăn nữa, cũng chẳng ai mua, nên lấp hết giếng rồi. Con cái cấm ông bà ăn
ngói, nhưng ông bà thèm lắm, cứ ăn giấu ăn giếm thôi. Hồi năm ngoái,
mấy đứa con thuê máy xúc về khơi ao, ông thấy vỉa đất trắng lộ ra, nhìn
thèm quá, không nhịn được, ông bà lại đào lên ăn. Mới hơn năm nay, ông
bà đã xơi hết một góc bờ ao rồi”.
Vợ chồng cụ Loa đang xơi đất
Để chứng minh đất này ăn được, ngon là
đằng khác, cụ Khổng Văn Loa lấy một cục đất to như cục gạch, đã phơi
nắng từ hai hôm nay. Cụ dùng con dao rựa sắc, nhằm thớ đất nạy ra thành
từng miếng nhỏ. Nạy không ra thì cụ chém, bổ theo thớ. Cả khối đất gồm
những miếng nhỏ độ vài ngón tay, bằng bao thuốc lá dính chặt vào nhau.
Nạy ra từng miếng rồi, cụ Loa kỳ công đẽo gọt hết phần sạn (đất đen,
tạp chất bám dính), chỉ lấy phần lõi trắng xóa như cục phấn, như miếng
ruột sắn, ruột khoai lang.
Theo cụ Loa, có hai cách chế biến đất
khá đơn giản. Cách thứ nhất, cho đất vào rổ, đặt lên bếp kiềng rồi châm
lửa vào rơm… ẩm. Sau khi rơm cháy một cách khó nhọc, thì lấy tro lấp
lên lửa để tạo khói. Khói mù mịt bốc lên, quyện lấy những cục đất trong
rổ độ 30 phút đến một tiếng đồng hồ, khi cục đất trắng xóa chuyển sang
màu ám khói vàng nhạt, thì ăn được. Chỉ cần hun khói một lần, có thể
gói đất vào giấy báo, túi nilon ăn quanh năm suốt tháng. Thứ đất kỳ lạ
này có tác dụng giữ mùi ám khói rất tốt và đặc biệt chính cái mùi ám
khói đó đã tạo nên sự quyến rũ của đất. Vợ chồng cụ Loa và cụ Biện
thường chỉ chế biến đất ăn bằng cách đơn giản như vậy. Còn cách chế
biến thứ 2, phức tạp hơn chút, nhưng đã thành nghệ thuật “ẩm thực đất”
từ xưa ở vùng Lập Thạch. Sau khi tạo nguyên liệu đất, người ta đi bẻ
cành tế và hái lá sim trên đồi, rồi vặt lá ổi trong vườn. Cành tế thì
khô, nhưng lá sim và lá ổi đều phải tươi nguyên, còn rỏ nhựa. Lá ổi và
lá sim được rải xuống đáy rổ hoặc rá, đất xếp lên, rồi lại phủ tiếp lớp
lá ổi và lá sim. Củi tế đốt không bắt lửa, nhưng cho nhiều khói. Khói
quẩn lên rổ, quyện vào lá sim, lá ổi, bốc ra thứ mùi đặc trưng, rồi bị
đất hút vào. Hun khói như vậy chừng một giờ thì đất ngả màu vàng và
thơm nức, nhìn chỉ muốn cắn.
Vợ chồng cụ Loa thi thoảng cũng làm món
đất kiểu cầu kỳ như thế, nhưng chỉ làm cho người đặt mua. Nhưng người
mua đất về ăn hầu như không còn nữa, người mua chủ yếu là người tò mò,
mua về làm kỷ niệm, số ít nhà khoa học đặt cụ làm món đất để nghiên
cứu. Hai cụ già đào bới xới tung cả bờ ao, rồi phơi đất kín sân, cạo
đất cành cạnh, rồi đốt lửa lấy khói hun đất suốt mấy ngày trời mới làm
được chừng một yến đất ăn, bán được một hai trăm ngàn. Nhưng theo hai
cụ, càng ngày càng ít người mua đất. Cả năm may ra có vài người đến
hỏi.
Cụ Khổng Văn Loa năm nay 78 tuổi, vợ là
cụ Khổng Thị Biện, 79 tuổi. Hai cụ quê gốc ở Cao Phong, bên kia sông
Lô, thuộc Phú Thọ. Hai cụ biết đến món đất này từ nhỏ, vì bố mẹ, ông bà
thường đi bộ hơn 20 cây số sang mãi vùng Lập Thạch mua về ăn. Bố cụ đi
cày, thường dắt lưng chiếc điếu cày, ấm trà xanh và gói đất. Cày cuốc
mệt, nhấp chén trà, rít điếu thuốc lào, rồi nhai miếng đất là tỉnh cả
người, làm việc không biết mệt. Theo cụ Loa, tục ăn đất có từ bao giờ,
cha ông cụ cũng không rõ, nhưng từ năm 1945 thì ăn nhiều hơn, khắp nơi
ăn. Có thể do trận đói, người dân ăn đất cho quên đói, rồi bị nghiện
luôn. Còn cụ Biện thì bảo, khi người đàn bà có bầu, trong người nóng
nực, khó chịu, ăn miếng đất, vừa bùi ngậy lại mát ruột, cơ thể sảng
khoái hẳn ra. Đẻ xong rồi, vẫn nhớ mùi vị của đất, nên cứ ăn mãi, rồi
nghiện đến già. Có lẽ, thứ đất chứa nhiều canxi này có tác dụng tốt với
cơ thể bà chửa, nên chủ yếu đàn bà ăn đất, ít có đàn ông nghiện món
này.
Cụ Loa bảo, không biết có phải duyên nợ
với đất không, mà cách đây 50 năm, vợ chồng cụ đi khai hoang, lại định
cư trên đúng kho đất ăn được, đó là đồi Vạng. Ngày đó, dân khắp Lập
Thạch kéo về đồi Vạng, đòi Bò Vàng, đồi Công An để đào giếng khai thác
đất ăn. Cụ Loa dẫn tôi lên đồi Vạng, cũng như những quả đồi khác, toàn
đá sỏi gan trâu, chỉ có bạch đàn sống được. Trên khắp quả đồi rộng vài
ha này, đâu đâu cũng thấy di tích của giếng đất. Mỗi miệng giếng có
đường kính trên dưới một mét, sâu xuống lòng đất thì vô kể. Khi đào
xuống đến độ sâu nhất định, hết vỉa đất, thiếu dưỡng khí, hoặc gặp
nước, thì người ta lại đào các ngách theo đường ngang. Các ngách chạy
lung tung trong lòng đồi, xuyên thủng nhau, tạo thành một hệ thống hang
động chằng chịt dưới lòng đất. Ngày đó, dựng nhà trên đồi Vạng, đúng
mỏ đất, nên hai cụ sống khá giả bằng nghề chế biến đất ăn. Hàng ngày,
cụ Loa xuống lòng đất tìm đất trắng như công nhân ngành than khai mỏ,
rồi hai vợ chồng xì xụp nướng đất cả đêm, để sớm mai cụ Biện có mẹt đất
to tướng bày bán ở chợ. Cái mẹt đất ấy đã nuôi mấy người con trưởng
thành. Tuy nhiên, giờ trên đồi Vạng không còn giếng đất nào nữa, chỉ
còn lại di tích nông choèn. Con cháu hai cụ đã lấp hết giếng đất, vì sợ
cụ trèo xuống, nhỡ sẩy chân ngã thì khổ, rồi trẻ con nghịch ngợm, trâu
bò sa chân rơi xuống thì chỉ có chết.
Đang lang thang giữa trưa nắng trên đồi
Vạng để nhớ lại những ngày nhà nhà đào đất, người người ăn đất, thì cụ
Biện gọi lớn. Tôi và cụ Loa tìm về ngôi nhà trình đất ngay sườn đồi.
Rổ đất trắng tinh sau khi hun khói đã chuyển sang màu hơi ngà. Hai cụ
ngồi trên giường, cứ mỗi người một miếng, nhai sần sật, sồn sột. Bột từ
miếng đất tan ra, dính trắng môi mép hai cụ. Vừa nhai, cụ Biện vừa
bảo, bùi như hạt mít, béo ngậy như miếng gan lợn nướng, càng ăn càng
ngon, càng ăn càng nghiện, nghiện đến rụng răng, đến khi về với đất mới
thôi. Nhìn hai cụ già ngồi nhai đất, giữa ngôi nhà tường trình đất,
tôi có cảm giác như tổ tiên, ông bà mình từ thuở hồng hoang hiện về từ
mãi thời các vua Hùng dựng nước, khi mà đất được coi trọng lắm, đến đám
cưới đám hỏi cũng phải “lấy gói đất làm đầu”. Một cảm xúc như ở đâu xa
lắm tràn đến, và tôi đã nhặt một miếng đất, hồn nhiên sồn sột nhai
cùng hai cụ.
Ở Việt Nam, đặc biệt là trên Tây Bắc cũng có nhiều vùng người dân lấy đất đem về nướng ăn và coi đó như là một thứ “lương thực”. Thậm chí họ còn ngâm nước cho nhão ra thành bùn, trộn thêm mì chính, muối, ớt… nướng vàng lên và ăn kèm… cơm. Năm 2006, trong chuyến đi lên xã Xìn Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Chúng tôi đã thấy một số “mỏ đất thực phẩm” ven đường mòn. Đó là loại đất trắng bạc như đất sét, nhưng có thớ nghiêng. Nhà báo Nguyễn Như Phong đã ăn thử và thấy… nhàn nhạt, có mùi ngai ngái và hơi tanh. Khi trợn mắt nuốt được một miếng to bằng ngón tay thì ông lắc đầu: “Khó sực quá”. |
Đồn thổi kỳ bí về người giống… Bụt
Một hôm, đang chơi trong chùa, cậu bé Lai đã trèo
lên xoa vào đầu bức tượng rồi nói: "Đẹp trai nhỉ, giá như sau này mình
đẻ được người con thế này thì tốt”. Như có quả báo, câu nói đùa hồi trẻ
con lại trở thành hiện thực vận vào hai đứa con của ông sau này?
Nguyễn Văn Vũ
Qua lời kể hùng hồn và thuyết phục của những người từng gặp mặt đứa bé, chúng tôi quyết định đi tìm sự thật về lời đồn kỳ bí này.
Xôn xao câu chuyện “Bụt phạt”
Ba chục năm nay, những tưởng, theo thời gian câu chuyện mang nhiều màu sắc hoang đường về người đàn ông có khuôn mặt Bụt đã rơi vào quên lãng. Tuy nhiên, điều bất ngờ, người dân Hữu Bằng vẫn không ngừng truyền tai nhau, kể vanh vách cho nhau nghe mỗi khi nhắc đến chuyện này.
Bà Nguyễn Thị Loan, người xã Thanh Sơn (cạnh xã Hữu Bằng), từng chứng kiến sự việc nhớ lại: "Chúng nó chỉ giống tượng phật bằng gỗ ngày xưa thôi. Da dẻ cũng như vậy, màu gỗ mốc, mắt một mí, sắc, tai sát vào không mở ra như bình thường. Một đứa mất hồi nhỏ, bây giờ nhà ông ấy vẫn còn một đứa đấy”.
Vợ chồng ông Lai và cậu con trai. |
Người dân nơi đây kể lại, vào cuối những năm 60 của thế kỷ trước, tại làng Văn Cao, xã Hữu Bằng, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng có một ngôi chùa bị bỏ hoang, đổ nát. Trong chùa chỉ còn mỗi bức tượng phật bằng gỗ là nguyên vẹn nhưng cũng đã tróc sơn vì mưa nắng. Đám trẻ chăn trâu trong làng thường ra đây chơi đùa.
Ông Nguyễn Văn Lai (SN 1954) khi đó chừng 13- 14 tuổi vốn nổi tiếng nghịch ngợm trong vùng. Một hôm, đang chơi trong chùa, cậu bé Lai đã trèo lên xoa vào đầu bức tượng rồi nói: "Đẹp trai nhỉ, giá như sau này mình đẻ được người con thế này thì tốt”.
Như có quả báo, chẳng ai ngờ câu nói đùa hồi trẻ con lại trở thành hiện thực vận vào hai đứa con của ông sau này?
Năm 1976, ông Lai kết hôn với bà Nguyễn Thị Bải. Đôi vợ chồng nghèo ở một ngôi nhà tranh cuối làng Văn Cao. Năm 1980, vợ chồng ông Lai sinh được người con trai đặt tên là Nguyễn Văn Vũ.
Khi mới sinh, người Vũ đỏ hỏn như quả mận chín, gia đình ông tưởng trẻ con mới đẻ ra người đỏ như vậy là bình thường. Nhưng được ba tuổi, người Vũ vẫn đỏ hỏn, không những vậy đầu còn không mọc tóc, da bị tróc vảy, không đi lại được, lúc nào cũng nằm với ngồi.
Chưa hết bàng hoàng, 6 năm sau, vợ chồng ông Lai lại sinh được người con gái đặt tên là Nguyễn Thị Lê.
Lạ kỳ, người con gái cũng có mặt mày và nước da đỏ hỏn bị tróc vẩy giống hệt như anh trai. Hai người con của ông Lai lớn lên chẳng nói chẳng rằng, mắt to, môi thâm, đầu trọc, da tróc vẩy trắng, suốt ngày ngồi như tượng.
Lúc này, người ta mới bàn tán câu chuyện xảy ra ở ngôi chùa hoang cuối làng năm xưa. Câu chuyện nghịch Bụt đã khiến gia đình ông hoang mang, lo lắng.
Nghe mọi người mách nước vợ chồng ông đã đi cầu cúng khắp nơi, cứ chỗ nào có thầy giỏi là vợ chồng ông Lai lại tìm đến. Có lẽ, vì lời khẩn cầu thành tâm của vợ chồng ông nên ba người con sau này sinh ra đều bình thường.
Hoàn cảnh thương tâm
Chúng tôi tìm vào nhà ông Nguyễn Văn Lai đúng dịp ngày mùa, con đường làng ngập tràn rơm rạ. Ở cái làng này ai cũng thương cho vợ chồng ông Lai.
“Nhà ông Lai nghèo lắm. Trước kia ở nhà đất, có năm đứa con thì hai đứa bị bệnh tật, đốt không biết bao nhiêu tiền của chạy chữa mà chẳng khỏi. May mắn là có dự án đường cao tốc chạy qua, được đền bù ít tiền nên gia đình ông xây được cái nhà tử tế chứ không thì chẳng biết bao giờ mới ngóc đầu lên được”, một người dân trong làng cho biết.
Thoạt nhìn, ông Lai có thân hình chắc khỏe, nước da ngăm đen. Nhìn kỹ trên mặt ông người ta có thể nhận thấy nỗi khắc khổ còn đọng lại ở những nếp nhăn kéo đôi mắt buồn u tịch.
Đi bộ đội từ tháng 3 năm 1975, năm 1976 về nhà cưới vợ sau đó ông tiếp tục đi làm nghĩa vụ quân sự đến năm 1979 thì xuất ngũ.
Năm 1980, hai vợ chồng vui mừng khi đứa con đầu tiên chào đời. Gia đình đặt tên con là Nguyễn Văn Vũ.
Hồi mới sinh, da Vũ đỏ như da quả mận, người nhà cứ nghĩ là bị tràm sau đó đưa đến bệnh viện Nhi Đức để chăm sóc trong lồng ấp.
Tại đây, các bác sĩ đã chẩn đoán Vũ bị tắc tuyến mồ hôi bẩm sinh. Hai năm sau, vợ chồng ông tiếp tục sinh thêm người con thứ hai đặt tên là Nguyễn Thị Lê.
Điều lạ kỳ, Lê cũng bị những triệu trứng như của Vũ. Gia đình ông vô cùng buồn bã, lại nghe lời đồn đoán của người dân nên rất hoang mang.
Bà Bải nhiều đêm chỉ biết ôm gối khóc ròng. “Hồi ấy, vừa chạy chữa cho các cháu, chúng tôi nghe người ta mách nên cũng đi cầu cúng các nơi. Bà nội, bà ngoại còn đưa các cháu lên chùa bán. Nhưng đấy chỉ là những biện pháp để giải tỏa tâm lý”, bà Bải kể lại.
Năm 1986, ông Lai đưa Vũ và Lê lên bệnh viện Việt - Tiệp, khoa Da liễu ở TP Hải Phòng để xét nghiệm. Kết quả lần này cũng khẳng định, hai đứa trẻ bị tắc tuyến mồ hôi bẩm sinh.
Bác sĩ ghi trong bệnh án là do nhiễm xạ. Lúc này ông Lai mới nhớ lại: "Hồi làm bộ đội tên lửa, sau những lần bắn tập thường phải vệ sinh bệ phóng. Có đôi ba lần trong lúc làm việc tôi đã hít phải thứ khí ô khí Gơ gì đó mà người ta hay gọi, sau đó về thì thấy người mệt mỏi. Nhưng chỉ thời gian ấy thôi, sau này thì người bình thường”.
May mắn, qua thời gian điều trị, những năm sau đó ông Lai sinh được ba người con nữa và cả ba đều khỏe mạnh, bình thường.
Ông Lai bộc bạch: "Trước đây gia đình khó khăn lắm, gần đây được đền bù mảnh đất vài trăm triệu cũng cố gắng xây cái nhà cho các cháu nó ở đàng hoàng. Vũ trước đây còn đi lại, tự sinh hoạt được nhưng sáu, bảy năm trở lại đây mắt cháu mờ đi, tay không còn linh hoạt, gia đình phải đút cho ăn. Hiện ba đứa con sau của tôi thì hai đứa đang học đại học. Gia đình vẫn phải vay mượn để nuôi các cháu ăn học”.
Gặp Vũ, ban đầu chúng tôi cũng không khỏi giật mình bởi ngoại hình của anh có nét giống pho tượng. Chúng tôi hiểu vì sao người ta lắp ghép thành câu chuyện ly kỳ như vậy.
Trái với vẻ bề ngoài dữ dằn, Vũ rất thật thà và thân thiện, đặc biệt giọng nói của anh rất khoẻ khoắn, sang sảng.
Từ khi sinh ra cho đến bây giờ Vũ sinh hoạt rất khó khăn, da lúc nào cũng khô, bong, nứt nẻ. Mỗi sáng thức dậy mất khoảng 15 phút cho da co dãn rồi mới hoạt động được. Mỗi ngày Vũ đều phải dùng thuốc mỡ bôi da và thuốc nhỏ mắt, trung bình một tuần hết hai lọ.
Ngồi được một lúc, đứng dậy lớp da lại bong ra và rơi xuống đất. Ông Lai lại cầm chổi khua khua và hót cẩn thận lớp da bong tróc.
Hiện tại, Vũ được chế độ 202 dành cho người tàn tật, mỗi tháng anh được trợ cấp 360 nghìn đồng. Những giấy tờ xét nghiệm khi xưa đã bị thất lạc nên không đủ hồ sơ để làm chế độ cao hơn cho Vũ.
Mùa đông sắp tới, Vũ lại sắp phải đối mặt với nỗi đau đớn thể xác lớn nhất trong năm. Vì lúc thời tiết hanh khô, lớp da của Vũ sẽ nứt nẻ nhiều hơn và bong ra từng mảng lớn khiến chảy máu.
Nỗi đau này đã kéo dài 31 năm và Vũ vẫn còn phải tiếp tục đối mặt cho đến hết cuộc đời...
Ông Nguyễn Trường Sơn, trưởng thôn Văn Cao cho biết: "Ngày trước, đình, chùa bị tàn phá, trẻ con vào chơi là chuyện bình thường. Ông Lai hồi đó nghịch thật nhưng cũng chẳng đến nỗi nói như những lời đồn thổi. Tượng ở chùa hồi đó, trẻ con đứa nào chả sờ, chả nghịch, chưa kể những người phá chùa sao họ lại chẳng bị gì? Hơn nữa, năm 2010 và trước đấy ông ấy cũng đi xét nghiệm là bị nhiễm xạ, hai đứa con chẳng qua bị bệnh hiếm gặp nên mọi người thêu dệt cho ly kỳ chứ thật sự không có câu chuyện như lời đồn người ta vẫn kể” |
-------------------------------------------------------------------
.
Nỗi đau của những con người bị “quỷ ám”
Tình trạng của Tâm cứ như quỷ ám, ma hành. Anh Quan
bảo, mỗi khi lên cơn ngứa ngáy, không chịu nổi, Tâm lại trèo tít lên
ngọn cây và đu lủng lẳng trên đó khiến vợ chồng anh sợ hết hồn vía.
Vết loét kinh hoàng trên vai bé Tâm.
Thung lũng Mường Chiềng. |
Mường Chiềng vẫn vậy. Đèo dốc quanh co, khiến con đường mấy chục cây số mà xa xôi diệu vợi. Cái tên Mường Chiềng đã nổi tiếng lắm, nhưng buồn thay, Mường Chiềng nổi tiếng không phải vì có thung lũng hoa mận, hoa mơ, không phải vì có suối nguồn róc rách, cảnh vật trữ tình, mà Mường Chiềng nổi đình nổi đám vì căn bệnh quái gở bỗng phát tác ghê gớm, làm chấn động xã hội, làm đau xót bao con tim.
Bé Xa Văn Tâm. |
Năm 1997, vợ anh Quan sinh hạ thằng bé bụ bẫm. Được thằng con đẹp đẽ, nên vui lắm, mổ lợn ăn mừng, mấy ngày rượu tràn quanh bếp lửa. Lên nương thì thôi, chứ về nhà anh lại quẳng cày hôn hít con. Anh hứa với vợ, sẽ lao động chăm chỉ, trồng ngô trồng sắn, dành dụm tiền bạc nuôi con ăn học thành người, không để nó phải cực nhọc nương rẫy như cha mẹ nữa.
Anh Xa Văn Quan và cậu con tội nghiệp của mình. |
Biểu hiện bệnh “quỷ ám” trên thân thể bé Tâm cũng giống hệt những trường hợp trước đó. Nốt mẩn đỏ mọc trên trán, lan dần xuống ngực, cổ và tràn ngập 2 vai, lưng. Vợ chồng anh Quan nhìn con mình, ngày qua ngày, cứ như thể có dòi bọ lúc nhúc dưới lớp da, ăn thịt con mình, mà lòng đau như dao cắt. Khổ thân bé Tâm, chưa biết đi, đã phải biết gãi. Bé cứ khua khoắng loạn xạ, khóc lóc suốt ngày. Cái bệnh này ngứa lắm, ngứa như có dòi bọ trong da, không gãi không chịu nổi.
Xứ Mường Hòa Bình nổi tiếng vì có nhiều bài thuốc dân gian độc đáo, bí truyền. Nghe lời mách bảo, vợ chồng anh Quan đã đưa con đi đủ các xứ “nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động” để nhờ các thầy lang điều trị. Các thầy lang đều xót thương cho thân phận “quỷ ám” của bé Tâm, mà ra sức cứu chữa. Họ dùng đủ các bài thuốc uống trong, bôi ngoài, đắp lá, ngâm chậu, xông hơi. Thế nhưng, những bài thuốc được dân gian đúc kết cả ngàn năm kinh nghiệm cũng chẳng ăn thua gì. Những vết loét cứ mỗi ngày một lan rộng, ăn sâu vào cơ thể bé nhỏ của Tâm.
Mỗi khi đau đớn, ngứa ngáy quá, bé Tâm lại bỏ nhà đi lang thang. |
Tất thảy những thầy mo nổi tiếng nhất ở vùng Đà Bắc đều đã bó tay trước “con quỷ” tàn độc này. Gia đình những nạn nhân của căn bệnh quái gở ở Mường Chiềng cũng đã lần lượt mời các thầy mo trong vùng đến cúng, song bệnh tình chỉ nặng thêm. Bụt chùa nhà không thiêng, anh Quan phải sang tận Tân Lạc rước thầy mo cao tay nhất vùng về.
Đêm bắt “quỷ” hôm đó có mặt đông đủ họ hàng, làng bản. Hương khói, cờ phướn, lá bùa dán khắp ngôi nhà sàn. Tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng chú của thầy mo rền rĩ, âm âm trong cảnh núi rừng tịch mịch. Cậu bé Xa Văn Tâm với mình trần lở loét khóc thét vì sợ.
Sau mấy tiếng đồng hồ cúng bái, thầy mo thông báo đã đuổi được con quỷ ra khỏi cơ thể Tâm. Mọi người vui vẻ uống rượu, chúc mừng. Anh Quan tràn ngập hy vọng.
Từ ngày bé Tâm bị căn bệnh "quỷ ám", rất ít người đủ can đảm bước chân vào nhà anh Quan. |
Hôm tôi lên Mường Chiềng, thì Tâm vừa về sau mấy ngày bỏ nhà đi lang thang. Anh Quan cởi áo con mình ra, tôi thực sự sốc. Tôi đã chứng kiến rất nhiều thứ bệnh tật quái gở, nhưng không cầm nổi lòng mình khi thấy mặt, cổ, vai, gáy và đặc biệt là phần lưng bong tróc với lớp thịt đỏ au nhầy nhụa. Bệnh của em đã khủng khiếp hơn 4 năm trước rất nhiều.
Tình trạng của Tâm cứ như quỷ ám, ma hành. Anh Quan bảo, mỗi khi lên cơn ngứa ngáy, không chịu nổi, Tâm lại trèo tít lên ngọn cây và đu lủng lẳng trên đó khiến vợ chồng anh sợ hết hồn vía. Khốn khổ nhất là những ngày hè nắng nóng. Mồ hôi hòa lẫn vào vết thương khiến em bỏng rát, ngứa ngáy tột cùng. Gãi vào vết thương thì thịt da bong tróc, máu chảy tung tóe.
-----------------------------------------------------------------
Những chuyện lạ chưa thể giải thích từ đó cứ liên tiếp diễn ra trong dòng họ
này. Chỉ trong một thời gian ngắn mà lần lượt những người trẻ chết tức tưởi,
chết tai nạn vì những lý do cực kỳ lãng xẹt...
Đã phạm điều tối kỵ lại còn “trùng tang”?
Đầu những năm 2000, do mộ cụ tổ của cụ ông và cụ bà dòng họ nằm cách xa nhau, mộ của cụ bà lại bị người dân làm ruộng cuốc làm mất hết cả chân mộ dẫn đến nước ngập vào trong nên cả họ tiến hành họp những người cao tuổi trong dòng họ, bàn chuyện chuyển mộ cụ bà về gần cụ ông.
Người ta kể lại, khi thợ xây tiến hành đào đất để di dời mộ của cụ bà thì phát hiện trong ngôi mộ có một con rắn lạ, nặng khoảng nửa ký nằm ở độ sâu khoảng 1,5 mét, lạ lùng là mình rắn có màu đỏ như lửa. Tiếp tục đào mộ cụ ông, người ta lại tiếp tục phát hiện một con rắn hổ mang nặng đến một ký nằm ở trên đầu ngôi mộ. Theo lời kể lại, sợ nhất là cả hai con rắn trên đầu đều có mào hình chữ thập, nhìn kỹ thì thấy một con trên đầu có hình chữ “Thọ”, một con trên đầu có hình chữ “Phúc”.
Có lẽ người ta nghĩ ở khu vực cánh đồng ngập nước này, chuyện gặp rắn thì “thường như cơm bữa” nên không ai lấy làm lạ. Cánh thợ xây liền mang con rắn hổ mang đi bán lấy tiền uống rượu. Con rắn có màu đỏ rực còn lại thì ông Điền là người trong họ mang về nhà để ngâm rượu, nhưng sau đó vợ ông không cho ngâm nên ông mang ra ruộng thả đi.
Sau khi dòng họ di dời mộ cụ ông, cụ bà về với nhau, thời gian đầu mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường, không có biến cố nào xảy ra. Bẵng đi một thời gian, vào khoảng năm 2007 vợ của ông trưởng họ bỗng nhiên bị bệnh đột ngột qua đời. Dân làng bỗng trở nên hoang mang hoảng sợ, kể từ đó câu chuyện về dòng họ bị “ma ám” bỗng trở nên xôn xao, náo động cả một vùng quê.
Người trong họ cho biết, sau khi vợ ông trưởng họ bỗng nhiên bị bệnh đột ngột qua đời, con dâu trưởng của người chết liền đi xem bói thì được cho rằng: Khi làm mộ, nếu phát hiện có rắn ở trong thì đó là điều thịnh vượng và không nên đào lên nhưng mọi người vẫn cố làm dẫn đến bị động mả, do đó các cụ “về bắt” dần con cháu trong họ và người đầu tiên “bị bắt” chính là vợ trưởng họ. Bên cạnh đó, thầy bói còn “phán” thêm: Do bà vợ trưởng họ bị “bắt” đúng vào giờ “trùng tang” nên cứ thỉnh thoảng các vị “thần trùng” lại về lấy con cháu trong họ xuống để làm phục vụ cho các “thần”.
Cả nhà theo nhau chết
Chẳng biết cái chết của bà vợ ông trưởng họ có liên quan gì tới việc “động mồ mả tổ tiên” hay “trùng tang” hay không, nhưng kể từ khi cô con dâu cả đi xem bói về thì hàng loạt người trong dòng họ không kể già trẻ, gái trai cứ thế chết dần chết mòn. Hơn một tháng sau, cả họ suốt ngày “bận bịu” vì tiễn đưa bốn người gồm: Cô, dì, chú, bác, cháu trong dòng họ về nơi an nghỉ cuối cùng. Một điều trùng lặp khác khiến mọi người vô cùng lo sợ: Chỉ trong vòng có hơn nửa năm trời, ba vợ con của một gia đình trong dòng họ đang mạnh khỏe bỗng nhiên đổ bệnh rồi từ biệt mọi người về thế giới bên kia.
Trong vòng hơn một năm trời kể từ cái chết đầu tiên, tổng cộng gần chục người khác trong dòng họ cứ thế theo nhau chết, trong đó có những cái chết thuộc dạng lý do “cực dị”.
Cái chết của anh L.V. Ngãi (SN 1972) là một trong số đó, lạ đến mức khi nhắc lại cả người trong và ngoài cuộc vẫn ngơ ngác không biết giải thích như thế nào cho hợp lý. Đó là một buổi chiều giữa tháng 9/2009 vào giữa mùa rươi nổi, anh Ngãi cùng vợ chở nhau bằng xe đạp ra sông Bích Thủy bắt rươi.
Chị vợ kể lại: “Hôm đó, khi tới bờ đê sông anh Ngãi đưa điện thoại cho tôi, dặn đứng chờ rồi anh ấy bơi thuyền ra nơi bẫy rươi giữa sông”. Bóng anh Ngãi dần khuất trong bóng đêm giữa mênh mông sóng nước chỉ còn thấy leo lét ánh đèn pin. Đứng chờ trên bờ một hồi lâu, bỗng chị nhận được điện báo của anh chồng cũng đánh rươi cách đó vài trăm mét thông báo việc thấy đèn pin và chậu đựng rươi của anh Ngãi trôi lập lờ theo nước dòng mà không thấy người đâu.
Có chút sững sờ nhưng chị vợ cố trấn an suy nghĩ vì biết chồng lớn lên trên sông nước, bơi lội nhất nhì làng không thể có chuyện chết đuối. Nhưng đợi mãi, gọi mãi không thấy, chị mới tá hỏa hô hoán mọi người đi tìm giúp. Vạch từng bụi cỏ quanh sông, theo dòng vài km cũng không thấy động tĩnh gì. Lúc bấy giờ, không hiểu linh tính thế nào người anh trai nạn nhân mới giật mình nói rằng: “Nó vẫn ngồi đâu đây thôi”.
Quả thực, tất cả những người hôm đó sững sờ nhìn thấy thi thể anh Ngãi chợt bật lên khỏi mặt nước, xếp chân trong tư thế ngồi ngay cạnh mạn thuyền, không hề trôi đi dưới dòng nước đang cuồn cuộn chảy, trong khi không hề vướng mắc vào bất cứ vật cản nào. Nén lại đau thương và không thể giải thích được cái chết kỳ cục của nạn nhân, mọi người chỉ đoán già đoán non anh đã bị cảm đột ngột nên ngã đuối nước mà thiệt mạng.
Đúng ngày giỗ 100 ngày anh Ngãi, người anh trai cũng đột ngột qua đời ngay trong buổi sáng giỗ em.
Sáng hôm ấy, chị vợ anh dậy từ tinh mơ chuẩn bị gánh hàng cá đi chợ nhưng thấy chồng nằm im thin thít thì nhẩm nghĩ: “Chắc hôm qua đi làm nên mệt nhọc say giấc” và đã không đánh thức chồng. Sau khi chuẩn bị cơm sáng, đưa con đi học rồi đến khi tan chợ về nhà, chị vợ lấy làm lạ vì thấy chồng không đi dự giỗ trăm ngày em trai mà nằm bất động trên giường.
Nấu cơm xong, gọi dậy ăn nhưng anh chồng chỉ lắc đầu. Ngỡ chồng giận mình vì lý do nào đấy nên chị không nói gì. Đến tận chiều, cả nhà mới hốt hoảng về tình trạng của anh. Gia đình vội vàng đưa đi cấp cứu, nhưng những dấu hiệu không lành về sức khỏe hiện tại của bệnh nhân đã báo trước cho dòng họ thêm một lần tang tóc. Anh trai anh Ngãi đã qua đời ít ngày sau đó tại bệnh viện Hải Dương sau cơn đột quỵ ấy.
Nỗi đau trong họ mạc, gia đình còn chưa chấm dứt khi hai anh em ruột lần lượt qua đời cách nhau 100 ngày mà không có lý do thì một sự lạ khác lại tiếp diễn. Đúng 100 ngày sau cái chết của người con thứ 2, mẹ đẻ của hai anh cũng đột ngột qua đời. Khăn tang trắng lại chồng lên khăn tang, chỉ hơn 9 tháng trời mà gia đình chịu cảnh chia ly người thân 3 lần.
Người trong họ kinh hãi, người trong thôn xôn xao. Thực hư không rõ như thế nào nhưng những sự lạ này cứ được đồn đại lên. Có người cho rằng “khi thấy người anh không dậy được thì mời thầy về cúng bái, cúng xong hôm sau nạn nhân bỗng tỉnh lại, nhưng kì quái là khi tỉnh dậy người này cứ đuổi bà vợ để cắn, rồi ngày hôm sau nữa thì chết”. Rồi chuyện lúc gia đình làm lễ gọi hồn người đó về hỏi thì người đó nhập hồn vào một người khác và cứ cười khanh khách: “Có phải một mình tao bắt đâu, thằng đấy nó khỏe lắm, tao phải gọi mấy người lừa lúc nó say rượu nên mới bắt được”.
Trước hàng loạt cái chết của mọi người, dòng họ liền tìm xuống một ông thầy ở Quảng Ninh để “cầu cứu” thì được người này phán rằng: “Dòng họ bị trùng tang nên cứ khoảng 100 ngày là lại có một người ra đi, nếu muốn thoát được thì phải nhờ thầy cao tay lập đàn giải hạn”.
(Còn nữa)
------------------------------------------------------------------
“Rắn thần“ báo thù, hàng chục người theo nhau chết?
Theo quan niệm dân gian, khi cải táng mộ, nếu gặp rắn nằm trong mộ thì tối kỵ việc bắt, giết. Thế nhưng, những người trong một dòng họ ở Thị xã Chí Linh (Hải Dương) khi cải táng ngôi mộ tổ, gặp sự việc bất thường này lại có hành động “bất thường”: Bắt hai con rắn nặng cả ký lô lên làm… mồiĐã phạm điều tối kỵ lại còn “trùng tang”?
Đầu những năm 2000, do mộ cụ tổ của cụ ông và cụ bà dòng họ nằm cách xa nhau, mộ của cụ bà lại bị người dân làm ruộng cuốc làm mất hết cả chân mộ dẫn đến nước ngập vào trong nên cả họ tiến hành họp những người cao tuổi trong dòng họ, bàn chuyện chuyển mộ cụ bà về gần cụ ông.
Người ta kể lại, khi thợ xây tiến hành đào đất để di dời mộ của cụ bà thì phát hiện trong ngôi mộ có một con rắn lạ, nặng khoảng nửa ký nằm ở độ sâu khoảng 1,5 mét, lạ lùng là mình rắn có màu đỏ như lửa. Tiếp tục đào mộ cụ ông, người ta lại tiếp tục phát hiện một con rắn hổ mang nặng đến một ký nằm ở trên đầu ngôi mộ. Theo lời kể lại, sợ nhất là cả hai con rắn trên đầu đều có mào hình chữ thập, nhìn kỹ thì thấy một con trên đầu có hình chữ “Thọ”, một con trên đầu có hình chữ “Phúc”.
Ảnh minh họa |
Có lẽ người ta nghĩ ở khu vực cánh đồng ngập nước này, chuyện gặp rắn thì “thường như cơm bữa” nên không ai lấy làm lạ. Cánh thợ xây liền mang con rắn hổ mang đi bán lấy tiền uống rượu. Con rắn có màu đỏ rực còn lại thì ông Điền là người trong họ mang về nhà để ngâm rượu, nhưng sau đó vợ ông không cho ngâm nên ông mang ra ruộng thả đi.
Sau khi dòng họ di dời mộ cụ ông, cụ bà về với nhau, thời gian đầu mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường, không có biến cố nào xảy ra. Bẵng đi một thời gian, vào khoảng năm 2007 vợ của ông trưởng họ bỗng nhiên bị bệnh đột ngột qua đời. Dân làng bỗng trở nên hoang mang hoảng sợ, kể từ đó câu chuyện về dòng họ bị “ma ám” bỗng trở nên xôn xao, náo động cả một vùng quê.
Người trong họ cho biết, sau khi vợ ông trưởng họ bỗng nhiên bị bệnh đột ngột qua đời, con dâu trưởng của người chết liền đi xem bói thì được cho rằng: Khi làm mộ, nếu phát hiện có rắn ở trong thì đó là điều thịnh vượng và không nên đào lên nhưng mọi người vẫn cố làm dẫn đến bị động mả, do đó các cụ “về bắt” dần con cháu trong họ và người đầu tiên “bị bắt” chính là vợ trưởng họ. Bên cạnh đó, thầy bói còn “phán” thêm: Do bà vợ trưởng họ bị “bắt” đúng vào giờ “trùng tang” nên cứ thỉnh thoảng các vị “thần trùng” lại về lấy con cháu trong họ xuống để làm phục vụ cho các “thần”.
Cả nhà theo nhau chết
Chẳng biết cái chết của bà vợ ông trưởng họ có liên quan gì tới việc “động mồ mả tổ tiên” hay “trùng tang” hay không, nhưng kể từ khi cô con dâu cả đi xem bói về thì hàng loạt người trong dòng họ không kể già trẻ, gái trai cứ thế chết dần chết mòn. Hơn một tháng sau, cả họ suốt ngày “bận bịu” vì tiễn đưa bốn người gồm: Cô, dì, chú, bác, cháu trong dòng họ về nơi an nghỉ cuối cùng. Một điều trùng lặp khác khiến mọi người vô cùng lo sợ: Chỉ trong vòng có hơn nửa năm trời, ba vợ con của một gia đình trong dòng họ đang mạnh khỏe bỗng nhiên đổ bệnh rồi từ biệt mọi người về thế giới bên kia.
Trong vòng hơn một năm trời kể từ cái chết đầu tiên, tổng cộng gần chục người khác trong dòng họ cứ thế theo nhau chết, trong đó có những cái chết thuộc dạng lý do “cực dị”.
Cái chết của anh L.V. Ngãi (SN 1972) là một trong số đó, lạ đến mức khi nhắc lại cả người trong và ngoài cuộc vẫn ngơ ngác không biết giải thích như thế nào cho hợp lý. Đó là một buổi chiều giữa tháng 9/2009 vào giữa mùa rươi nổi, anh Ngãi cùng vợ chở nhau bằng xe đạp ra sông Bích Thủy bắt rươi.
Chị vợ kể lại: “Hôm đó, khi tới bờ đê sông anh Ngãi đưa điện thoại cho tôi, dặn đứng chờ rồi anh ấy bơi thuyền ra nơi bẫy rươi giữa sông”. Bóng anh Ngãi dần khuất trong bóng đêm giữa mênh mông sóng nước chỉ còn thấy leo lét ánh đèn pin. Đứng chờ trên bờ một hồi lâu, bỗng chị nhận được điện báo của anh chồng cũng đánh rươi cách đó vài trăm mét thông báo việc thấy đèn pin và chậu đựng rươi của anh Ngãi trôi lập lờ theo nước dòng mà không thấy người đâu.
Có chút sững sờ nhưng chị vợ cố trấn an suy nghĩ vì biết chồng lớn lên trên sông nước, bơi lội nhất nhì làng không thể có chuyện chết đuối. Nhưng đợi mãi, gọi mãi không thấy, chị mới tá hỏa hô hoán mọi người đi tìm giúp. Vạch từng bụi cỏ quanh sông, theo dòng vài km cũng không thấy động tĩnh gì. Lúc bấy giờ, không hiểu linh tính thế nào người anh trai nạn nhân mới giật mình nói rằng: “Nó vẫn ngồi đâu đây thôi”.
Quả thực, tất cả những người hôm đó sững sờ nhìn thấy thi thể anh Ngãi chợt bật lên khỏi mặt nước, xếp chân trong tư thế ngồi ngay cạnh mạn thuyền, không hề trôi đi dưới dòng nước đang cuồn cuộn chảy, trong khi không hề vướng mắc vào bất cứ vật cản nào. Nén lại đau thương và không thể giải thích được cái chết kỳ cục của nạn nhân, mọi người chỉ đoán già đoán non anh đã bị cảm đột ngột nên ngã đuối nước mà thiệt mạng.
Đúng ngày giỗ 100 ngày anh Ngãi, người anh trai cũng đột ngột qua đời ngay trong buổi sáng giỗ em.
Sáng hôm ấy, chị vợ anh dậy từ tinh mơ chuẩn bị gánh hàng cá đi chợ nhưng thấy chồng nằm im thin thít thì nhẩm nghĩ: “Chắc hôm qua đi làm nên mệt nhọc say giấc” và đã không đánh thức chồng. Sau khi chuẩn bị cơm sáng, đưa con đi học rồi đến khi tan chợ về nhà, chị vợ lấy làm lạ vì thấy chồng không đi dự giỗ trăm ngày em trai mà nằm bất động trên giường.
Nấu cơm xong, gọi dậy ăn nhưng anh chồng chỉ lắc đầu. Ngỡ chồng giận mình vì lý do nào đấy nên chị không nói gì. Đến tận chiều, cả nhà mới hốt hoảng về tình trạng của anh. Gia đình vội vàng đưa đi cấp cứu, nhưng những dấu hiệu không lành về sức khỏe hiện tại của bệnh nhân đã báo trước cho dòng họ thêm một lần tang tóc. Anh trai anh Ngãi đã qua đời ít ngày sau đó tại bệnh viện Hải Dương sau cơn đột quỵ ấy.
Nỗi đau trong họ mạc, gia đình còn chưa chấm dứt khi hai anh em ruột lần lượt qua đời cách nhau 100 ngày mà không có lý do thì một sự lạ khác lại tiếp diễn. Đúng 100 ngày sau cái chết của người con thứ 2, mẹ đẻ của hai anh cũng đột ngột qua đời. Khăn tang trắng lại chồng lên khăn tang, chỉ hơn 9 tháng trời mà gia đình chịu cảnh chia ly người thân 3 lần.
Người trong họ kinh hãi, người trong thôn xôn xao. Thực hư không rõ như thế nào nhưng những sự lạ này cứ được đồn đại lên. Có người cho rằng “khi thấy người anh không dậy được thì mời thầy về cúng bái, cúng xong hôm sau nạn nhân bỗng tỉnh lại, nhưng kì quái là khi tỉnh dậy người này cứ đuổi bà vợ để cắn, rồi ngày hôm sau nữa thì chết”. Rồi chuyện lúc gia đình làm lễ gọi hồn người đó về hỏi thì người đó nhập hồn vào một người khác và cứ cười khanh khách: “Có phải một mình tao bắt đâu, thằng đấy nó khỏe lắm, tao phải gọi mấy người lừa lúc nó say rượu nên mới bắt được”.
Trước hàng loạt cái chết của mọi người, dòng họ liền tìm xuống một ông thầy ở Quảng Ninh để “cầu cứu” thì được người này phán rằng: “Dòng họ bị trùng tang nên cứ khoảng 100 ngày là lại có một người ra đi, nếu muốn thoát được thì phải nhờ thầy cao tay lập đàn giải hạn”.
(Còn nữa)
------------------------------------------------------------------
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen